dẫn vào tuệ giác phật

Chùa pháp nhãn Temple chịu trách nhiệm nội dung thầy Thich Trung Sy. trang nhà Pháp Nhãn và Chùa Pháp Nhãn Đọc "Phật Điển Phổ Thông: Dẫn Vào Tuệ Giác Phật" - Phap Nhan Temple Phật giáo Nguyên Thủy rất coi trọng 4 nguyên lý cao cả đó là Tứ Diệu Đế hay còn gọi là Tứ Thánh Đế. Đây là các nguyên lý giúp con người đến được bờ giác ngộ, tự thoát khỏi khổ đau và phiền não. Trong 4 nguyên lý này gồm cả lý thuyết lẫn thực hành rất hiệu quả : + Khổ Đế + Tập Khổ Đế + Diệt Khổ Thánh Đế + Đạo Diệt Khổ Thánh Đế Sư Giác Nguyên (TK) Truyện Tranh PG; KHAI THÔNG THIỀN ĐỊNH THIỀN TUỆ - Song ngữ Anh-Việt số lượng Mã: KTTĐTT Danh mục: Pa-auk Sayadaw, SÁCH ẤN TỐNG. Mọi nhu cầu tư vấn về sản phẩm, vui lòng gọi trực tiếp hotline: 0971109458. Thông tin cửa hàng. Địa chỉ: 196 Nguyễn Gia Trí Nguyên Giác. Ấn phẩm "Phật Điển Phổ Thông: Dẫn Vào Tuệ Giác Phật" (DVTGP) là tuyển tập Kinh và luận ghi từ 3 truyền thống: Thượng Tọa Bộ, Đại Thừa, Kim Cang Thừa. Sách dày 850 trang, chữ nhỏ. Do vậy, khi viết bài này, dù nói là "đọc sách" hay nói là "giới thiệu Về câu hỏi Phật đường có khác với Chùa không? Nam Mô A Di Đà Phật, con không hiểu Phật đường và Chùa có giống nhau không ạ. Bên Việt Nam con đã quy y và có pháp danh rồi, qua Đài Loan tổ trưởng kêu con đi Phật đường cầu đạo nữa. Mà Phật đường thì không thờ Phật Bồ đề theo ngôn ngữ của Phật Giáo chính là thức tỉnh, giác ngộ hay trí tuệ. Thông thường, Bồ đề bao gồm 7 pháp tu tập đưa đến giác ngộ và sự chứng đắc giác ngộ thông qua các nguyên lý dẫn đến sự chín muồi của tỉnh thức. Bên cạnh đó, trong ý nghĩa đặc biệt của giác ngộ, thuật ngữ "Bồ đề" còn được dùng để nói đến sự giác ngộ của chư Ðộc Giác Phật. Vaytiennhanh Home Credit. Ấn phẩm “Phật Điển Phổ Thông Dẫn Vào Tuệ Giác Phật” DVTGP là tuyển tập Kinh và luận ghi từ 3 truyền thống Thượng Tọa Bộ, Đại Thừa, Kim Cang Thừa. Sách dày 850 trang, chữ nhỏ. Do vậy, khi viết bài này, dù nói là “đọc sách” hay nói là “giới thiệu sách” cũng chỉ là mạo phạm. Cũng y hệt như vào một thư viện Phật học khổng lồ, và tự biết rằng sức người chỉ có thể đọc một phần rất nhỏ, nơi một góc các kệ sách thư viện. Người viết tự biết là không dễ để viết về ấn phẩm này, dù là với nhiệt tâm muốn mời gọi độc giả tìm đọc, để thỉnh ấn phẩm này. Đúng ra, những dòng chữ này xin là “vài suy nghĩ rời” về một ấn phẩm rất cần thiết cho người học Phật. Phản ứng đầu tiên là giựt mình, khi nhìn thấy tác phẩm quý giá này chỉ “in 1000 cuốn, khổ 12X20 cm tại Xí nghiệp In Fahasa” – tại sao in quá ít như thế, đó là điều rất khó hiểu. Người viết ước mơ rằng sách này nên in vài chục triệu ấn bản, trao tặng tất cả Phật Tử và những người quan tâm về Phật học. Tuyển tập Phật Điển này để đọc một đời, không chỉ để đọc trong một tuần, một tháng hay một năm. Một điểm nữa, nói “đọc” hay “giới thiệu” sách Phật Điển chỉ là nói theo kiểu ngôn ngữ phàm trần. Bản thân mình có tư cách gì mà làm như thế. Nơi đây, chỉ là lạm dụng ngôn ngữ thôi. Bởi vì Kinh là Lời của Phật, làm sao mình dám làm như khi gặp các tác phẩm truyện hay thơ trong đời thường. Tuy nhiên, nếu lặng lẽ chắp tay, đặt bộ Phật Điển này lên bàn thờ thì lại có lỗi khác, vì không quảng diễn một vài điểm có thể lợi ích cho một số độc giả. Thêm nữa, đâu có phải chỉ đọc một tuần hay một tháng là xong. Kinh Phật đôi khi có những kinh rất ngắn, mà phải đọc trọn đời. Đó là chưa kể, có những kinh hướng dẫn tu tập, ngay cả các kinh quen thuộc, tu vẫn là cả một đời, như Từ và Bi nơi trang 486, như Chỉ và Quán nơi trang 527, như Bốn Niệm Trụ thường dịch là Tứ Niệm Xứ nơi trang 531, Niệm Hơi Thở nơi trang 538, hay Quán Vô Ngã nơi trang 660 là pháp tu trọn đời — không chỉ để đọc hay để tụng, vì đọc tụng thì không vào sâu được. Nói chung, ấn phẩm DVTGP là cuốn sách với trang nào cũng cần đọc, với dòng chữ nào cũng cần trân trọng. Sách “Phật Điển Phổ Thông Dẫn Vào Tuệ Giác Phật” thực hiện với Chủ biên bản dịch Việt là Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ, ấn hành do Hương Tích và NXB Hồng Đức. Sách này là một dự án của Hội Đồng Vesak Quốc Tế, đặt tại Đại Học MCU của Thái Lan. Kết tập và soạn tập sách này là nhiều Biên tập viên và dịch giả quốc tế. Trong đó, phía người Việt có Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, GS TS Lê Mạnh Thát, và GSTS Thích Nhật Từ. Biên tập viên và dịch giả tiếng Việt, với Tổng biên tập là Thầy Thích Tuệ Sỹ, và các vị phiên dịch là Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Duyên khởi sách này là từ Hội nghị lần thứ nhất của Hội Đồng Tăng già Thế Giới tại Colombo năm 1967, một số khoảng 20 học giả Phật Giáo tuyển chọn từ ba truyền thống Phật Giáo đảm trách dự án này. Trưởng Biên tập là Hòa Thượng GS TS Phra Brahmapundit viết, “Trong suốt bảy năm, ủy ban biên soạn đã tổ chức không dưới 20 hội thảo chuyên đề tại MCU để phát huy nhận thức và triển khai phương án cụ thể. Khoảng 490 trích đoạn từ các kinh điển và các luận thư hậu kỳ cùng với các sở thích của ba truyền thống Phật giáo được tuyển dịch trong tác phẩm này hợp đồng giới thiệu những gì Đức Phật đã thuyết…” DVTGP, trang 10 Như thế, sách này có thể gọi là đầy đủ các cốt tủy của Phật Học. Độc giả có thể thỉnh sách này ở Thư Quán Hương Tích, 308/12 Nguyễn Thượng Hiền, Quận Phú Nhuận, Phone 28 35500339 hay email huongtichbooks Cuốn sách này mênh mông như thế, biết làm sao viết một bài mà giới thiệu được? Do vậy, nơi đây sẽ chỉ nêu lên một truyền thuyết thường được nhắc tới trong Thiền Tông, và in lại trong sách DVTGP ở trang 749. Đề mục này trong sách là “ Ca-diếp ngộ chỉ niêm hoa vi tiếu, thành Sơ tổ Thiền tông.” Chữ là viết tắt chữ “ tức là, “Kinh hay luận trong truyền thống Đại thừa, thứ tự mục số 165.” Tương tự, Th. là viết tắt Theravada, tức là Thượng Tọa Bộ, có khi quen gọi là Nam Tông. Trong sách này truyền thống Kim Cang Thừa viết tắt là V., nhiều Phật tử còn quen gọi là Phật Giáo Tây Tạng. Trong kể về một thiền thoại như sau “Đức Thế Tôn niêm hoa Một lần, trên đỉnh Linh Thứu, đức Thế Tôn đưa lên một cành hoa trước đại chúng. Mọi người bấy giờ đều im lặng, chỉ có tôn giả Ca-diếp mỉm cười. Đức Thế Tôn bảo “Ta có pháp môn vi diệu, là kho tàng con mắt Chánh Pháp Chánh Pháp nhãn tạng, tâm vi diệu Niết-bàn Niết-bàn diệu tâm, vô tướng của thật tướng thật tướng vô tướng, không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo, nay đem giao phó cho Đại Ca-diếp.” DVTGP, trang 749 Đoạn văn trên cũng là trích dịch từ Vô Môn Quan, một tác phẩm của Thiền Tông Trung Hoa, được nhiều người dịch sang tiếng Việt. Như vậy, Đức Phật truyền cái gì cho ngài Ca-diếp? Pháp môn vi diệu này là gì? Bông hoa đưa lên là có tướng bông hoa, sao gọi là vô tướng của thật tướng và sao lại liên hệ gì tới “Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm”? Có ai thấy ngài Ca-diếp thò tay ra để nhận pháp hay nhận y bát gì đâu, mà chỉ được kể là mỉm cười thôi? Hình như xin dè dặt nói là, hình như thiền thoại này không được ghi lại trong Tạng Pali, và hình như cũng không ghi trong Tạng A Hàm. Như thế, nghĩa thực của thiền thoại “niêm hoa vi tiếu” là gì. Trong cương vị của một người hoàn toàn không có thẩm quyền gì, nơi đây xin mạn phép trả lời rằng ngay ở cái ngó thấy hoa đó, tự thân đã là Niết-bàn, đã lìa tham sân si. Ngay ở cái “thấy hoa” đã là cảnh giới mà Kinh Tứ Thập Nhị Chương gọi là “vô tu, vô chứng” — nghĩa là, nếu ở cái thấy đó, mà còn tu hay còn mài giũa thì là hỏng, hay nơi cái thấy đó mà còn vin vào chỗ nào gọi là chứng thì cũng hỏng. Bởi vì ngay ở cái thấy đó, tự thân là giải thoát rồi. Chính ngay khi đó, nói bằng ngôn ngữ khái quát hóa, thì ngài Ca-diếp đã “thấy cái vô tướng và nghe cái vô thanh.” Bởi vì ngài “thấy cái vô tướng” nên “tướng hoa” mới hiện lên, và vì “nghe cái vô thanh” nên “lời Đức Phật” mới vọng tới. Chính ngay đó là giải thoát. Hễ làm gì khác cho cái thấy đó, cho cái nghe đó đều là hỏng. Có rất nhiều nhân duyên để hình thành ra một cái “thấy hoa” và “nghe lời Đức Phật” như thế. Có ngọn núi Linh Thứu, có Đức Phật đưa tay cầm hoa lên, có hội chúng vân tập trong đó ngài Ca-diếp tới nghe lời Đức Phật thuyết kinh, có cái được thấy và có cái được nghe, nhưng thực sự không có ai thấy và không có ai nghe, vì tìm hoài, tìm khắp cả ngoại xứ khắp núi đồi cây cỏ chúng hội… và nội xứ khắp thân tâm, gan tim phèo phổi… cũng không tìm ra cái gì là chủ thể của cái thấy và nghe. Trong khi đó, ngọn gió vô thường chảy xiết, tất cả những hình ảnh được thấy và những âm thanh được nghe liên tục biến đổi. Trong những hình ảnh được thấy như thấy hoa, thấy tay Đức Phật đưa hoa lên và những âm thanh như nghe giọng Đức Phật nói hễ ngài Ca-diếp nghĩ là phải mài giũa, phải tu gì nữa, thì sẽ là hỏng, vì chỉ là “bám víu cái niệm của quá khứ” hay chỉ là “mơ tưởng cái niệm của tương lai” hay chỉ là “níu kéo cảm thọ khoan khoái khi nghe Đức Phật khen” đều là hỏng. Ngài nhận ra ngay trong “cái thấy, cái nghe” tự thân đã lìa thủ với xả, vì hễ cố ý thủ với xả là tức khắc không còn là “cái thấy, cái nghe” mà nó đã hiện ra “cái tôi muốn hay cái tôi không muốn” — và là tham sân hiện ra. Nghĩa là, khi pháp hiện lên rồi biến mất, tất cả những cái thấy và cái được thấy và tất cả những cái nghe và cái được nghe đều không hề có gì là “tôi” và “của tôi.” Đó là chỗ trong Thiền sử, khi một bà cụ hỏi sư Đức Sơn rằng “Kinh Kim Cang nói quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, xin hỏi Thượng tọa điểm tâm nào?” Thế là nhà sư trả lời không được. Thế nhưng, nụ cười của ngài Ca-diếp được Đức Phật khen ngợi, vì thấy được và sống được với “tâm không chỗ nào để trụ.” Trong cái thấy, cái nghe đó, toàn bộ quá khứ, vị lai và hiện tại đều bất khả đắc. Hễ đắc gì đều là trật nhịp ra ngoài Niết-bàn diệu tâm. Vì trong Pháp tánh Duyên khởi, tất cả đều là rỗng rang, là Tánh không. Nơi đây, để lấy cái “thấy hoa” ra đối chiếu, trong mục “ Pháp siêu việt ngôn ngữ” ở sách DVTGP trang 268, trích như sau “Pháp không dao động, vì không y chỉ sáu xứ. Pháp không đến, không đi, vì không sở trụ. Pháp thuận hợp Không, tùy hiện Vô tướng, ứng hợp Vô nguyện, vì viễn ly tăng giảm. Pháp không thủ xả vì viễn ly sanh diệt…” Tương tự, có thể đối chiếu “cái thấy, cái nghe” của ngài Ca-diếp với mục “ Duyên khởi và trung đạo II” nơi trang 423, trích “Này Vô Biên Trang Nghiêm, các ông, những bậc trí giả, nên biết như vầy, tướng chân thật của tất cả pháp là không đến, không đi, không phân chia, không gián đoạn, không đồng nhất tánh, không dị biệt tánh, đến bờ kia cao nhất của hết thảy pháp. Không có bất cứ pháp nào mà không đến bờ kia. Đến bờ kia chính là Niết-bàn. Chân thật tướng của các pháp là Niết-bàn. Vì vậy, nên biết, là bất khả thuyết.” Chúng ta cũng có thể níu áo ngài Ca-diếp bằng một số kinh khác. Thí dụ, như Kinh Bahiya, khi Đức Phật dạy rằng hãy để cái được thấy, được nghe, được tri giác… là cái được thấy, được nghe, được tri giác… thì ngay nơi đó, không còn sinh tử luân hồi nào trói buộc nửa. Nghĩa là, tự thân, thấy nghe hay biết đã là giải thoát. Ngài Huệ Năng cũng dạy cho ngài Huệ Minh y hệt như thế “Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Nghĩa là, khi bông hoa của Đức Phật đưa lên, nếu ngài Ca-diếp và chúng ta còn nghĩ ngợi bất cứ gì thì ngay khi đó, hoa không còn là hoa đang hiển lộ trong cái gương tâm tinh khôi của ngài Ca-diếp và của chúng ta. Ngay khi hoa đưa lên, nếu chợt khởi tâm muốn hoa phải thế này, phải thế kia… thì không còn là “cái hoa đang là” mà là đã, đang và sẽ biến thành một “cái hoa trong ý chí ảo tưởng” của người đối diện. Có thể dẫn một kinh khác để thấy hoa. Kinh ghi rằng một Thiên nữ hiện ra, hỏi Đức Phật rằng làm cách nào vượt khỏi bộc lưu. Ý là, làm sao thoát dòng sông của nghiệp lực. Chúng ta sống trên đời, sinh già bệnh chết, đi đứng nằm ngồi đều là do nghiệp thúc đẩy. Bấy giờ, Đức Phật trả lời “Này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu. Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.” Hình ảnh trên dòng sông nghiệp có thể giải thích về cái nhìn “thấy hoa” của ngài Ca-diếp. Nếu khởi tâm “thấy không phải là thấy” hay khởi tâm “nghe không phải là nghe” mà là muốn bước tới, tức là muốn nắm giữ hay muốn kình chống, tức là “thấy hoa phải là cái gì khác” thì sẽ chìm. Nhưng nếu nói rằng cứ đứng lại thì là sẽ bị dòng sông nghiệp kéo chìm vì chúng ta luôn luôn bị nghiệp thúc đẩy, cho tới khi bức màn vô minh, tức là nghiệp si vén lên. Do vậy, “không đứng lại, không bước tới” là cái tỉnh thức của thấy nghe hay biết, và là xa lìa cả tâm ba thời quá khứ, vị lai, hiện tại, tức là cái nhìn của tâm vô tâm, hoàn toàn vô sở trụ, không trụ vào ba thời, không trụ vào năm uẩn… Đó mới đúng là cái “thấy hoa” của ngài Ca-diếp. Trong cái thấy đó, hiển lộ trong gương tâm không hơn và không kém, không tới và không lùi, một vị bình đẳng; hễ ai thấy và nghe mà cứ khởi dị tâm thì tức khắc gương tâm không còn “thấy hoa” mà chỉ là “thấy cái tâm mình muốn hoa phải là, hay thấy cái tâm mình muốn hoa không là” và thế là sẽ hiện ra sáu cõi mịt mù phiền não. Như vậy, chỉ trong một “cái thấy” và “cái nghe” là có thể thấy tận Khổ Tập Diệt Đạo. Sách DVTGP nơi mục trang 426 ghi “…đối với thế gian vô thường bịnh hoạn mà chứng đắc thường trụ Niết-bàn; đối với thế gian không được che chở, không nương tựa mà che chở và làm nơi nương tựa. Vì sao? Vì pháp không có hơn kém mà chứng đắc Niết-bàn; vì trí tuệ bình đẳng mà chứng đắc Niết-bàn; vì giải thoát bình đẳng mà chứng đắc Niết-bàn; vì thanh tịnh bình đẳng mà chứng đắc Niết-bàn. Cho nên Niết-bàn chỉ có một vị, vị bình đẳng, gọi là vị giải thoát.” Khi đã hiểu đạo, sẽ thấy tất cả các tông phái xuyên suốt nhau, không ngăn ngại, dù là Nam Tông hay Bắc Tông, dù là Thiền Tông hay Bát Nhã, dù là Duy Thức hay Hoa Nghiêm, và vân vân. Cách nói khác nhau, nhưng đều chỉ về một vị giải thoát. Thí dụ, nơi đây, chúng ta thử nói chuyện “thấy hoa” như thiền thoại Đức Phật đưa hoa lên và ngài Ca Diếp mỉm cười hay chuyện “nghe tiếng đàn” như Kinh Lăng Nghiêm, nói về cội nguồn cái nghe qua phân tích của Tông Hoa Nghiêm. Trong sách DVTGP, nơi mục “ Kim sư tử chương” ở các trang 652-654 viết về luận này của ngài Pháp Tạng 643-7 12, nhìn thực tại như là pho tượng sư tử vàng hiện lên như “cái được thấy” và chất “vàng” là tánh của các pháp, tức là tướng sư tử dựa vào tánh vàng để hiển lộ. Không có “tánh vàng” thì không có “tướng sư tử” và ngược lại. Như vậy, hình ảnh hoa là cái được thấy, tiếng đàn là cái được nghe. Do vậy, hoa và nhạc là “tướng” và dựa vào “tánh” là duyên khởi trùng trùng đưa tới “hoa ảnh” và “tiếng đàn.” Trong Tạng A Hàm, Kinh SA 1169, Đức Phật dạy về cội gốc của những gì được thấy nghe hay biết đều là do duyên khởi, là rỗng rang, là cạm bẫy sinh tử, chớ nên níu kéo gì hết. Như tiếng đàn, Kinh này viết “Này các Tỳ-kheo, thời quá khứ có ông vua nghe tiếng đàn hay chưa từng có được, nên sanh yêu thích, say mê, chìm đắm. Vua hỏi các vị đại thần rằng Đó là những âm thanh gì mà nghe khả ái quá vậy?’ Đại thần tâu Tâu bệ hạ, đó là những tiếng đàn.’ Vua nói với đại thần Khanh hãy đem những âm thanh đó đến đây.’ Đại thần vâng lời, liền đem cây đàn đến tâu Tâu đại vương, đây chính là cây đàn đã tạo ra âm thanh hay.’ Vua nói đại thần Ta không cần cây đàn, mà chỉ cần đem những âm thanh khả ái đã nghe lần trước đến.’ Đại thần tâu Cây đàn này cần phải có nhiều thứ, là phải có cán, có máng, có thùng, có dây, có da và người đàn giỏi. Cần phải hội đủ những nhân duyên này mới thành âm thanh. Nếu thiếu đi những dụng cụ này thì sẽ không có được âm thanh. Âm thanh mà bệ hạ đã nghe trước đây đã qua lâu rồi, chúng đã biến chuyển và cũng đã diệt mất rồi, không thể đem đến được.’…” Kinh SA 1169. Bản dịch Tuệ Sỹ, Đức Thắng Trở lại chuyện sư tử và vàng của Hoa Nghiêm Tông. Như thế, ảnh hoa và tiếng đàn là ví như sư tử, tánh không là ví như vàng. Sách DVTGP, trang 653 viết về “1. Minh duyên khởi” “Cái ta gọi là vàng vốn không có tự tánh, tùy theo duyên thợ công xảo, thời tướng sư tử hiện khởi. Khởi chỉ do duyên, nên nói là duyên khởi.” Như thế, chúng ta thấy, tiếng đàn và ảnh hoa không có tự tánh, tùy duyên khởi mới có tướng là cái được nghe và cái được thấy. Phần “2. Biện sắc không” nơi cùng trang trên, viết “Cái ta gọi là sư tử’, tướng của nó là hư, vàng mới là thật. Sư tử không phải có, chất vàng không phải không, do đó nói là sắc vàng và không sư tử. Lại nữa, Không không có tướng riêng, nhưng nó không chướng ngại sắc huyễn có. Đây gọi là sắc và không.” Như thế, tướng là hư, tức là ảnh hoa và tiếng đàn cái được thấy và cái được nghe là hư, vàng mới là thật, tức là Không tánh, hay Pháp Tánh Duyên khởi tánh mới là thực. Tương tự Hiển vô tướng nói, “ngoài vàng không có tướng nào của sư tử mà bắt nắm được. Do đó, nói là vô tướng.” Chúng ta cũng nói, ngoài hoa ảnh và tiếng đàn thì không có tướng nào của Không tánh hiện ra, nên có tướng nhưng thực tướng là vô tướng. Tương tự Thuyết vô sanh nói, “Ngay khi thấy sư tử sanh, đó chỉ là vãng sanh. Ngoài vàng, không có một vật gì. Sư tử tuy có sanh diệt, nhưng vàng không có tăng giảm. Đây gọi là vô sanh.” Do vậy, hoa ảnh được thấy, tiếng đàn được nghe, chính là Không tánh sanh khởi. Hoa ảnh và tiếng đàn có sanh diệt, nhưng Không tánh không tăng giảm, nên gọi là vô sanh. Tận cùng là “10. Nhập Niết bàn” DVTGP, trang 654 viết “Khi thấy sư tử và vàng, cả hai tướng sư tử và vàng đều dứt hết, thì phiền não không sanh. Đẹp xấu hiện tiền nhưng tâm an bình như biển lặng. Vọng tưởng dứt sạch, không còn bức bách, thoát triền phược, lìa chướng ngại, vĩnh viễn bỏ xa nguồn khổ. Đây gọi là nhập Niết-bàn.” Tuyệt vời là như thế, thấy cả hai tướng “tiếng đàn và Pháp Tánh duyên khởi” đều dứt hết, tâm an bình như biển lặng… Không chỉ cái được thấy hoa và cái được nghe tiếng đàn, độc giả cũng có thể mở sách “Phật Điển Phổ Thông Dẫn Vào Tuệ Giác Phật” và nghiệm về cái được ngửi. Bạn thắp nhang lên, thấy mùi hương trầm, sẽ thấy “mùi hương” này là “sư tử” và hiển lộ ra với bạn qua Pháp tánh Duyên khởi tức là “Không” hay là “vàng” và bạn có thể tự xét nghiệm từng dòng kinh luận như thế. Tuyệt vời là hạnh phúc, khi sống được từng lời Đức Phật dạy. Trân trọng ghi lại vài suy nghĩ rời nơi đây, và chân thành mời gọi độc giả tìm đọc tuyển tập Kinh luận này. Hai vị Chủ biên Việt dịch sách DVTGP Lê Mạnh Thát – Tuệ Sỹ _________________________________ GHI CHÚ Cội Nguồn Tổ Việt, ấn tống được 500 cuốn 200 Anh; 300 Việt và đã đem về Mỹ để tặng và nhường lại cho những ai hữu duyên. Nếu quý vị nào muốn ủng hộ cho thư viện thành phố địa phương, hoặc có nhu cầu thỉnh về đọc, xin liên lạc cư sĩ Tâm Thường Định Phe X. Bach tamthuongdinh . Continue Reading Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn Thị Nghĩa Trần Trung Đạo Tâm Quang Vĩnh Hảo Nguyên Không Nguyễn Tuấn Khanh Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ TÒA SOẠNChủ Trương BHD GĐPT Việt Nam tại Hoa KỳChủ nhiệm Quang Ngộ Đào Duy Hữu, Trưởng Ban Hướng Dẫn GĐPT Việt Nam tại Hoa KỳChủ bút Nguyên Từ Nguyễn Quốc Hưng, Tổng Thư Ký BHD/GĐPT/VN/HK Thư ký tòa soạn Tâm-Quảng-Nhuận Điện thoại Email sentrangus Biên Tập Nguyên Túy, Đức Quảng, Tâm Nghĩa, Thị Nghĩa, Tâm Tường, Nguyên Thuyết, Diệu Ngọc, Nguyên Cần, Nguyên Viên, Nguyên Túc, Huệ Tâm, Huệ Cảnh, Quảng Ý, Minh Tánh, Tâm Thường Định, Diệu Nghiêm, Bửu Thành, Tâm Định, Huệ Trí, Nhuận Pháp, Nhật Lực, Tâm Quảng Nhuận, Nguyên Anh, Tâm Huệ Trần Nhật, Quảng Pháp, Uyên Nguyên... Common Buddhist Text Guidance and Insight from the Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya MCU. Chief Editor Venerable Brahmapundit Editor Peter Harvey Translators Tamás Agócs, Peter Harvey, Dharmacārī Śraddhāpa, Premasiri, Somaratne, Venerable Thich Tue Sy Phật Điển Phổ Thông Dẫn vào Tuệ Giác Phật Chủ biên bản Việt ngữ LÊ MẠNH THÁT – TUỆ SỸ Ban biên dịch Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya MCU, Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành. SÁCH ẤN TỐNG – FREE DISTRIBUTION TỰA Phước lạc thay chư Phật chánh đẳng giác xuất hiện. Phước lạc thay Giáo pháp trung đạo dẫn đến lạc của chư Phật được tuyên dương. Phước lạc thay chúng đệ tử hiểu và hành như Chánh pháp. Phước lạc thay chúng đệ tử hòa hiệp đồng tu. Dhammapada, kệ 194 Đại lễ Vesak, nhằm vào ngày trăng trong tháng Vesak, thông thường trong khoảng tháng Năm dương lịch, là khánh tiết ngày Đản sinh của Đức Phật, và cũng là ngày Thành đạo và nhập Niết-bàn. Tháng 12 năm 1999, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc công nhận ngày này là ngày lễ quốc tế, và tập sách này có thể được xem là triển khai từ sự công nhận này. Ý nghĩa quan trọng của ngày lễ như vậy đã xúc tiến thế giới Phật giáo đồng nhất tâm hướng về đại lễ Vesak, lần thứ nhất, năm 2000, được cử hành tại trụ sở của Liên Hợp Quốc ở New York và tại đây các đại lễ được cử hành thường niên, cho đến từ 2004 hầu hết được cử hành tại Bangkok, với hai năm trung đoạn được cử hành tại Việt Nam, và một năm tại Sri Lanka. Sự vân tập của các Phật tử khắp nơi trên thế giới đã dẫn đến việc thành lập Ủy Hội Quốc Tế Ngày Lễ Vesak the International Council for the Day of Vesak/ICDV, nay với tư cách tư vấn đặc biệt tại Ủy hội Kinh tế Xã hội Liên Hợp Quốc. Bản thân của ICDV đã hội tụ trên hai mươi cơ cấu Phật học cao cấp và hỗ trợ thành lập Hiệp hội Quốc tế các Đại học Phật giáo, the International Associtaion of Buddhist Universities, IABU. ICDV và IABU đã tạo cơ hội cho sự hợp tác thường xuyên trong các phương diện nghiên cứu và hành trì giữa ba hệ truyền thừa chính đang hiện hành của Phật giáo, Theravāda Thượng tọa bộ, Mahāyāna Đại thừa và Vajrayāna Kim cang thừa. Một trong những nỗ lực chung như vậy là một dự án được khởi động từ năm 2009 tại Đại học Hoàng gia Mahachulalongkorn-rajavidyalaya MCU, Thái-lan, với mục đích thống nhất những điểm tương đồng giữa các truyền thống Phật giáo khác nhau và đồng thời khánh chúc sự phong phú và đa dạng giữa các truyền thống này. Thành quả của sự nghiệp tập đại thành lịch sử này được công bố với tác phẩm Phật điển Phổ thông, Dẫn vào Tuệ giác của Phật. Được khích lệ bởi nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc và được gợi hứng bởi viễn kiến của các vị lãnh đạo Phật giáo Theravāda và Đại thừa, đề khởi một số điểm cơ bản thống nhất các tông phái Phật giáo tại Hội nghị lần thứ nhất của Hội Đồng Tăng-già Thế giới the World Buddhist Sangha Council, WBSSC tại Colombo năm 1967, một số khoảng 20 học giả Phật giáo được ICDV và IABU tuyển chọn từ ba truyền thống Phật giáo đã đảm trách dự án này. Trong suốt bảy năm, ủy ban biên soạn đã tổ chức không dưới 20 hội thảo chuyên đề tại MCU để phát huy nhận thức và triển khai phương án cụ thể. Khoảng 490 trích đoạn từ các kinh điển và các luận thư hậu kỳ cùng với các sớ thích của ba truyền thống Phật giáo được tuyển dịch trong tác phẩm này hợp đồng giới thiệu những gì Đức Phật đã thuyết. Bản văn trong tay bạn này đã trải qua hai vòng duyệt sách của các nhà lãnh đạo và các học giả Phật giáo thế giới, hoàn toàn tán đồng văn phong cũng như nội dung, hy vọng mang lại nhiều lợi ích cho người đọc. Dưới huệ cố của Hội Đồng Tăng-già Tối Cao Thái-lan và với sự hộ trì của Chính phủ Hoàng gia Thái-lan, MCU được đặc ân giao nhiệm vụ tán trợ ngay từ đầu. Tôi hy vọng mối cảm thông được phát huy trong quá trình tập đại thành của công trình quan trọng này sẽ giúp các truyền thống tôn giáo khác nhau, Phật giáo và phi Phật giáo, tăng cường hòa điệu và sống chung hòa bình như đã được đức Phật triển vọng. Hòa Thượng GS TS Phra Brahmapundit Trưởng Biên tập Viện Trưởng Viện Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya Chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Đại Lễ Vesak Chủ tịch Hiệp hội Quốc tế các Viện Đại học Phật giáo NỘI DUNG Bối cảnh biên dịch 5* Tựa 9 Nội dung 11 Dẫn luận 17 I. Tổng quan 17 II. Cuộc đời đức Phật lịch sử 24 III. Tăng-già – Chúng hội đệ tử 41 IV. Tuyển dịch Phật giáo Thượng tọa bộ 44 V. Tuyển dịch kinh điển Phật giáo Đại thừa 57 VI. Tuyển dịch kinh điển Phật giáo Kim cang thừa 74 PHẦN I. ĐỨC PHẬT 87 Chương 1. Cuộc đời đức Phật lịch sử 88 Giáng thần, đản sanh và thuở thiếu thời 88 Tầm cầu giác ngộ 98 Đắc các định vô sắc vi tế 102 Khổ hạnh tự hành xác 107 Giác ngộ và kết quả 116 Phẩm đức viên mãn của đức Phật 123 Đức Phật vị đạo sư 128 Xưng tán Phật 150 Dung nghi của đức Phật 152 Điều phục và giáo hóa những người chống đối hoặc đe dọa 160 Phật an trú thiền tọa, tán thán tịch tĩnh và tri túc 170 Thân bệnh của đức Phật, và tâm từ chăm sóc người bệnh 175 Những tháng cuối đời của đức Phật 185 Chương 2. Các quan điểm khác nhau về đức Phật 204 THƯỢNG TỌA BỘ 204 Tương quan Phật và Pháp 204 Tự tánh của Phật 206 Tiền thân Phật Bồ-tát tích tập các ba-la-mật, và những đệ tử đắc quả 207 Như Lai sau khi chết 211 ĐẠI THỪA 214 Danh hiệu và phẩm đức của đức Phật 214 Phật tánh 219 Ba thân’ Phật 224 KIM CANG THỪA 231 Phật tánh 231 Tam thân Phật 234 Ngũ bộ Phật bộ 235 Phật trong tâm 239 PHẦN II. PHÁP 245 Chương 3. Các phẩm tính của Pháp 246 THƯỢNG TỌA BỘ 246 Đặc tính tổng thể của Pháp 246 Mục đích tu Phật 248 Thái độ đối với các đạo giáo khác 248 Tranh luận và khoan dung 249 Giáo pháp chú trọng thực hành 257 Con đường dẫn đến trí giải thoát 259 ĐẠI THỪA 265 Những phẩm tính của Pháp 265 Lý do quyết định tu Phật 268 Tranh chấp và bao dung 269 Pháp là phương tiện đưa tới cứu cánh 270 Giáo pháp phân định tùy căn cơ, thu nhiếp tất cả 271 KIM CANG THỪA 273 Phẩm tính của Pháp 273 Lược giải về Pháp 276 Chương 4. Về Xã hội và Quan hệ nhân sinh 285 THƯỢNG TỌA BỘ 285 Thuật trị nước 285 Hòa bình, bạo lực, và tội ác 289 Tài sản và hoạt động kinh tế 297 Bình đẳng xã hội 303 Bình đẳng nam nữ 308 Quan hệ nhân sinh tốt đẹp 311 Cha mẹ và con cái 313 Vợ chồng 314 Bằng hữu 316 ĐẠI THỪA 317 Thuật trị nước 317 Hòa bình, bạo loạn và tội ác 320 Sung Túc và Kinh tế 321 Bình đẳng nam nữ 322 Thờ kính và báo ơn Cha mẹ 323 Hồi hướng công đức cho những người thân đã mất 327 KIM CANG THỪA 329 Giáo huấn vương đạo nhân ái 329 Suy tưởng ân đức của mẹ 334 Chương 5. Về Nhân sinh 342 THƯỢNG TỌA BỘ 342 Vòng luân hồi saṃsāra 342 Thân người là quý 345 Thế giới của chúng ta trong tương quan với vũ trụ 346 Nghiệp 347 Những hàm ý nghiệp và tái sanh cho thái độ đối với tha nhân 360 Đời này và tất cả tái sanh đều dẫn đến già, bệnh, và chết 361 ĐẠI THỪA 367 Vũ trụ của chúng ta 367 Nghiệp 369 Thân người khó được 374 Vô thường 375 KIM CANG THỪA 377 Thân người quý báu 377 Luân hồi khổ 381 Chương 6 Đạo tích và Đạo hành 393 THƯỢNG TỌA BỘ 393 Trách nhiệm cá nhân – tự thân nỗ lực 393 Yêu cầu đồng hành thiện tri thức tài đức 395 Chức năng và bản chất của tín 397 Quy y Phật, Pháp, Tăng 399 Hành vi lễ bái 400 Tụng các phẩm tánh của Phật, Pháp, và Tăng có thể mang lại sự hộ trì và phước lành 400 Giới, định, tuệ 404 Trung đạo Thánh đạo tám chi 407 ĐẠI THỪA 409 Tín 409 Quy y Phật, Pháp và Tăng 413 Trách nhiệm và nỗ lực cá nhân 419 Trung Đạo 420 Bồ-tát đạo cao hơn Thanh Văn và Độc Giác 424 Thầy dạy Đạo 429 Tu tập bồ-đề tâm bodhi-citta 432 KIM CANG THỪA 439 Tín tâm 439 Quy y Phật, Pháp, Tăng 442 Thiện tri thức 444 Hành trung đạo 445 Bồ-đề tâm bodhi-citta 447 Thứ đệ đạo 454 Chương 7. Đạo Đức 458 THƯỢNG TỌA BỘ 458 Thiện và bất thiện hành 458 Bố thí 461 Trì giới 464 Chánh mạng và các giới khác 466 Từ ái và kham nhẫn 469 Giúp mình và giúp người 471 Chăm sóc thú vật và môi trường 473 ĐẠI THỪA 475 Năng lực của thiện pháp 475 Bố thí 475 Các học xứ giới 477 Chánh mạng và các giới phụ 480 Giúp mình và người 482 Giáo hóa người khác 484 Chăm sóc thú vật và môi trường 485 Từ và Bi 486 Ba-la-mật của Bồ-tát 488 Bồ-tát nguyện và Bồ-tát giới 497 KIM CANG THỪA 504 Nghiệp thiện và bất thiện 504 Bố thí ba-la-mật 505 Trì giới ba-la-mật 508 An nhẫn ba-la-mật 511 Tinh tấn ba-la-mật 516 Chương 8. Tu Định 517 THƯỢNG TỌA BỘ 517 Mục đích của thiền định 517 Các tùy miên cũng như các tiềm năng sáng chói của tâm 518 Năm triền cái và các phiền não khác 520 Quan trọng của tác ý 524 Chỉ samatha và quán vipassanā 527 Niệm công đức Phật, Pháp, Tăng và sự chết 528 Bốn vô lượng tâm từ, bi, hỷ và xả 530 Bốn niệm trụ satipaṭṭhāna tu quán vipassanā và chỉ samatha 531 Niệm hơi thở ānāpāna-sati 538 Thiền, thắng trí và vô sắc định 542 ĐẠI THỪA 548 Sơ nghiệp tu định 548 Không tham chấp thiền định 548 Tâm quang minh 548 Tu tập từ và bi 550 Niệm Phật 551 Chánh Niệm 553 Chỉ và bốn thiền 556 Tu Quán 559 Thiền Chan/Zen 561 KIM CANG THỪA 569 Thiền định 571 Tu đối trị phiền não 572 Tu bốn vô lượng 575 Bốn niệm 582 Tu tự tánh tâm 584 Chương 9. Trí Tuệ 588 THƯỢNG TỌA BỘ 588 Bản tánh của trí tuệ 588 Khổ và bốn Thánh Đế 590 Duyên sinh và khổ sinh 598 Suy nghiệm có phê phán về ý niệm thượng đế sáng tạo 608 Không có tự ngã thường hằng 609 ĐẠI THỪA 620 Bản tánh của trí tuệ 620 Duyên khởi 621 Suy nghiệm có phê phán về ý niệm Thượng đế sáng tạo 624 Không có ngã thể thường hằng 627 Tự tánh Không 631 Duy thức và tánh Không của năng-sở nhị nguyên 640 Phật tánh thực tại tích cực 644 Sự tương liên tuyệt đối của tất cả pháp 648 KIM CANG THỪA 654 Ba tuệ 654 Duyên khởi 656 Quán vô ngã 660 Chương 10 Những mục tiêu của Phật giáo 670 THƯỢNG TỌA BỘ 670 Hạnh phúc đời này và đời sau 670 Niết-bàn 670 ĐẠI THỪA 677 Hạnh phúc đời này và đời sau 677 Chứng ngộ tối hậu 678 Niết-bàn 678 Phật quả 686 Tịnh Độ 691 KIM CANG THỪA 694 Hạnh phúc đời này và đời sau 694 Chứng ngộ tối hậu 695 Niết-bàn 695 Sở hành của Phật 697 PHẦN III. TĂNG 701 Chương 11. Các đệ tử xuất gia, tại gia và hiền thánh 702 THƯỢNG TỌA BỘ 702 Chúng đệ tử xuất gia và tại gia 702 Chế độ tăng lữ 703 Giới luật xuất gia 705 Các hạng thánh đệ tử 711 A-la-hán 716 ĐẠI THỪA 720 Bồ-tát tại gia và xuất gia 720 Giới luật xuất gia 722 KIM CANG THỪA 725 Đời sống tu đạo 725 Chương 12 Những đời sống gương mẫu 730 THƯỢNG TỌA BỘ 730 Các đại đệ tử tỳ-kheo A-la-hán 730 Các đại đệ tử A-la-hán tỳ-kheo-ni 737 Các đại đệ tử tại gia 745 ĐẠI THỪA 749 Những đại đệ tử xuất gia 749 Những đại đệ tử tại gia 757 KIM CANG THỪA 760 Đại thành tựu giả 760 Phụ Lục 775 Từ vựng Phật học và tên riêng 806 ______________ * Ghi chú Số trang theo bản sách tiếng Việt Trích Chương 10 Phật Điển Phổ Thông Dẫn Vào Tuệ Giác Phật Nhiều Tác Giả Chủ biên bản dịch Việt LÊ MẠNH THÁT TUỆ SỸ THƯỢNG TỌA BỘ Hạnh phúc đời này và đời sau Như đã thấy trước đây, Phật giáo xem tái sinh trong cõi người là hiếm có và quý báu * chấp nhận thực tế có nhiều cõi trời cuối * * và xem cả hai loại tái sinh này là quả của thiện nghiệp. Những hành động như vậy cũng dẫn đến mối quan hệ hài hòa với những người khác ví dụ * cùng với tịch tĩnh và tịnh lạc do tu tập * 140, 155. Tất cả những điều này là một trong những mục tiêu của hành trì Phật giáo. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng là đạt được Niết-bàn, để vượt thoát mọi tái sinh trong tương lai và những hệ quả đau khổ. Chứng ngộ tối hậu Những ai đã đoạn trừ các phiền não dẫn đến tái sinh trong tương lai được gọi là A-la-hán xem * Người đó có thể tiếp cận với kinh nghiệm trực tiếp về Niết-bàn trong đời này, và khi chết sẽ đạt được Niết-bàn cứu cánh. Các Thánh giả khác xem * đạt được các trình độ phát triển tâm linh khác nhau, chắc chắn cũng sẽ dẫn đến quả A-la-hán, trong tối đa bảy đời. Niết-bàn Niết-bàn Pāli. nibbāna, Skt. nirvāṇa là mục tiêu của Thánh đạo tám chi trong Phật giáo Thượng tọa bộ. Cũng như duyên khởi, vốn được xem là uyên áo và khó thấy * Niết- bàn, đó là sự dập tắt’ của lửa’ tham chấp/ái dục, sân và si, cùng với các đau khổ than và tâm mà các phiền não ấy dẫn đến, bất cứ thể thức tồn tại hữu vi hay tái sanh nào. Khi một người thành A-la-hán, đã giác ngộ, đã đoạn tận tham, sân và si, Niết-bàn khởi sự được chứng nghiệm ngay khi đang sống. Khi một vị A-la-hán qua đời, có Niết-bàn vượt ngoài sự chết, vượt ngoài mọi mô tả Itivuttaka 38–39. Mục đích của đời sống phạm hạnh Ở đây, này các tỳ-kheo, thiện gia nam tử tín tâm xuất gia… được lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Nhưng vị ấy không hoan hỷ, hay thỏa mãn, với những lợi dưỡng, cung kính, danh vọng ấy. Không vì những lợi dưỡng, tôn kính và danh vọng kia, mà vị ấy khen mình, chê người, nói rằng Ta là được thọ lợi dưỡng, tôn kính và danh vọng, còn các tỳ-kheo khác ít có lợi dưõng, ít có danh vọng.’… Vị ấy không mê say, tham đắm, buông lung. Sống không buông lung, vị ấy thành tựu giới. Do thành tựu giới này, mà có hoan hỷ, nhưng không tự mãn… không khen mình, chê người… Sống không buông lung, vị ấy thành tựu định. Do thành tựu định này, mà được hoan hỷ, nhưng không tự mãn… Do sống không buông lung, vị ấy thành tựu tri kiến. Do tri kiến này, mà được hoan hỷ, nhưng không tự mãn… Không vì tri kiến này, mà khen mình, chê người… Sống không buông lung, vị ấy thành tựu bất thời giải thoát. Này các tỳ-kheo, chẳng có cách nào, và sự tình này không thể xảy ra, rằng tỳ-kheo ấy có thể thoái thất phi thời gian giải thoát ấy. Này các tỳ-kheo, ví như một người đang muốn được lõi cây, đang tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, đến trước một cây lớn đứng thẳng có lõi cây, người ấy chặt ra lõi cây ấy… [bỏ đi những phần khác kém hơn của cây] rồi thu lượm và biết đó là lõi cây. Và tất cả những gì thuộc về lõi cây cần dung, ông nhận lấy. Như vậy, này các tỳ-kheo, đời sống phạm hạnh này không phải vì mục đích lợi dưỡng, cung kính, hay danh vọng, không phải mục đích chỉ thành tựu giới, không phải mục đích thành tựu định, không phải mục đích thành tựu tri kiến. Này các tỳ-kheo, mục đích của phạm hạnh này, lõi cây của nó, mục tiêu tối hậu của nó, là tâm giải thoát bất động. Mahā-sāropama Sutta Majjhima-nikāya dịch Anh and Niết-bàn đoạn tận tham, sân, si Theo nghĩa đơn giản nhất, Niết-bàn là sự đoạn tận các phiền não. Này tôn giả Sāriputta, được nói “Niết-bàn, Niết-bàn”;vậy, Niết-bàn là chi?’ Này hiền giả, Niết-bàn là sự đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si.’ Nibbāna Sutta Saṃyutta-nikāya dịch Anh Đồng nghĩa với Niết-bàn Đoạn này mô tả mục đích của đạo chủ yếu là vô vi’ asaṅkhata, trong ý nghĩa đoạn tận của tham, sân và si’ rồi đưa ra các từ đồng nghĩa gợi hứng khác nhau cho pháp vô vi đó, tức là Niết-bàn. Nơi khác * Niết-bàn được ví dụ như bờ bên kia’ an toàn và vi diệu, còn bờ bên này tượng trưng cho sự nguy hiểm của luân hồi saṃsāra. Này các tỳ-kheo, Ta sẽ nói về pháp vô vi và con đường dẫn đến vô vi. Và, này các tỳ-kheo, thế nào là vô vi? Đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si đây gọi là vô vi… Này các tỳ-kheo, Ta sẽ nói về pháp cứu cánh và con đường dẫn đến cứu cánh… vô lậu… chân đế… bỉ ngạn… xảo diệu… cực kỳ khó thấy… không già không biến hoại… bền lâu kiên cố… chiếu kiến không thất hoại apalokita = aplujjianata… vô kiến… vô hý luận… tịch tĩnh… bất tử… cực diệu… cát tường… an ổn… ái tận… bất tư nghị… hy hữu… không tai hoạn… pháp không tai hoạn… Niết-bàn… không tổn hại… ly tham… thanh tịnh… giải thoát… không chấp tàng… hòn đảo giữ nước lụt… hang ẩn… cứu hộ… quy y… đáo bỉ ngạn. Asaṅkhata saṃyutta Saṃyutta-nikāya and 368–73, dịch Anh Niết-bàn là tối thắng lạc Không bệnh, lợi tối thượng. Niết-bàn, lạc tối thượng. Tám chi, đạo tối tượng, dẫn đến cõi bất tử. Māghandiya Sutta Majjhima-nikāya dịch Anh Vui thay chúng ta sống, không có gì chướng ngại tham, sân, si. Ta sẽ hưởng hỷ lạc, như chư thiên Cực Quang. Dhammapada 200, dịch Anh Bản tánh của Niết-bàn Những đoạn nối tiếp nhau nói về Niết-bàn hình dung, trước hết, đó là vượt ngoài danh sắc hay bất cứ gì trên thế gian này; và cũng vượt ngoài sự đến và đi’ thường tương ưng với sự tái sanh, và là trạng thái không sở duyên, tức là không y chỉ’ trên bất cứ gì. Thứ hai, Niết-bàn vượt ngoài tham ái. Thứ ba, Niết-bàn không liên hệ gì đến sanh hay hữu, không phải là cái được tạo tác’ kata’ bởi nghiệp, và không phải được tạo tác/cấu thành saṅkhata bởi các hành saṅkhāra. Thứ tư, đó là trạng thái không dao động, khinh an vượt ngoài sự nghiêng lệch, bị uốn cong theo tham ái hướng đến bất kì đối tượng chấp thủ nào. Một thời Thế Tôn trú trong vườn ông Anāthapiṇḍika, rừng Jetavana, nước Sāvatthī. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết giảng cho các tỳ-kheo, khai thị, khuyến phát, khích lệ, khiến cho hoan hỷ bằng Pháp liên quan đến Niết-bàn. Các tỳ-kheo ấy nghe pháp, chú tâm, hướng tâm đến nó, nhiếp tâm chuyên nhất và lắng nghe. Khi ấy, Thế Tôn quán sát biết được điều này, thốt lên cảm hứng rằng Này các tỳ-kheo, có xứ này, tại đây không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió;[1] không có hư không vô biên xứ, không có thức vô biên xứ, không có vô sở hữu xứ, không có phi tưởng phi phi tưởng xứ;[2] không có đời này, không có đời sau, không có cả mặt trời và mặt trăng. Và này các tỳ-kheo, Ta nói không có đến, không có đi, không có trú, không có chết, không có sanh tái sanh đời sau; nơi đó không có y hộ, không có chuyển sanh, không có sở duyên. Đây thực sự là đoạn tận khổ.’… Khó thấy, không nghiêng lệch uốn cong theo tham ái. Chân đế không dễ thấy. Những ai đã thấy, biết, đã thông đạt khát ái, không có gì để chấp … Này các tỳ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị tạo tác, không được cấu thành. Nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị tạo tác, không được cấu thành, thì không thể khiến cho biết, ở đây, có sự xuất ly sanh, hiện hữu, bị tạo tác, bị cấu thành. Chính vì có cái không sanh, không hiện hữu, không bị tạo tác, không được cấu thành, nên khiến cho biết có xuất ly sanh, hiện hữu, bị tạo tác, bị cấu thành.’… Có dao động cho ai có y chỉ ái kiến các thứ. Không dao động cho ai không y chỉ. Khi không có dao động, thì có khinh an. Khi có khinh an, thì chẳng có nghiêng lệch uốn theo tham ái. Khi chẳng có nghiêng lệch, thì không có đến và đi. Khi không có đến và đi, thì chẳng có chết và tái sanh. Khi không có chết và tái sanh, thì không ở đây, hay ở đâu khác, hay ở giữa hai nơi. ây đích thực là đoạn tận khổ.’ The first, second, third and fourth Nibbāna-paṭisaṃyutta Suttas Udāna 80–81, dịch Anh Niết-bàn bất tử và bất thời Các đoạn này trước hết nhấn mạnh rằng Niết-bàn là bất tử’, tức là vượt ngoài bất cứ gì liên hệ đến sanh tử, và thứ đến, Niết-bàn không phải được tạo bởi con đường dẫn chứng ngộ, và cũng không phải là cái gì có sanh khởi do đó Niết-bàn không phải là tồn tại mãi trong thời gian, mà vượt ngoài thời gian và các giới hạn của pháp hữu vi lệ thuộc thời gian. Vị ấy hướng tâm ra khỏi các pháp kia [năm thủ uẩn, là vô thường, khổ, vô ngã] và hướng tâm đến bất tử giới ây là tịch tịnh, đây là vi diệu… Niết-bàn.’ Mahā-mālunkyaputta Sutta Majjhima-nikāya dịch Anh Dù vậy, thưa Đại vương, có thể chỉ con đường tác chứng Niết-bàn, nhưng chẳng thể chỉ ra nhân sanh khởi Niết-bàn. Vì sao? Vì pháp ấy Niết-bàn là vô vi.’ Tôn giả Nāgasena, có phải Niết-bàn là vô vi?’ Đúng vậy, thưa Đại vương, Niết-bàn là vô vi; không thể y vào bất cứ gì để tạo ra Niết-bàn. Không nên nói rằng, thưa Đại vương, Niết-bàn là đã sanh, chưa sanh, hay đang sanh; không phải là quá khứ, vị lai hay hiện tại; không phải là cái được nhận thức bởi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.’ Nếu vậy, tôn giả Nāgasena,… Niết-bàn là cái không tồn tại; không có Niết-bàn.’ Có Niết-bàn tồn tại, thưa Đại vương. Niết-bàn được nhận thức bởi ý. Thánh đệ tử, hành chánh đạo, với tâm thanh tịnh, thù diệu, đoan trực, không bị che lấp, không nhiễm ô, thấy được Niết-bàn.’ Milindapañha 270, dịch Anh Niết-bàn và thức Đoạn này cho thấy thức trụ trên bốn uẩn, lấy đó làm sở y mà tìm cầu dục lạc. Không tham trước nơi các uẩn này, hay thậm chí không tham trước cả đến chính dòng tương tục của thức, thức trở nên tri túc và tịch tĩnh để cho các hành vi cố ý hay nghiệp, bình thường đi theo nó, diệt đi, và người ấy chứng đắc Niết-bàn, vì không còn thức trôi vào đời sống mới. Một đặc điểm thú vị trong đoạn này là loại thức giải thoát này được gọi là không sở y’ và không sở duyên’, cũng như * nói về tự thân Niết-bàn. Tham dính nơi sắc, này các tỳ-kheo, thức đang trụ nơi sắc sẽ kiên trụ nơi sắc, có sắc là sở duyên hay sở y, có sắc là y xứ, lôi kéo theo hỷ, nó sẽ đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. Tham dính nơi thọ… tham dính nơi tưởng… tham dính nơi hành… lớn mạnh. Ai nói như sau, này các tỳ-kheo Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ thức đến hay đi, chết hay tái sanh, tức tăng trưởng, tăng thịnh hay lớn mạnh’ không có trường hợp này. Nếu này các tỳ-kheo, tỳ-kheo đoạn tham nơi sắc giới, do đoạn tham, mà sở duyên của nó bị cắt đứt, và không còn sở y,sở duyên cho thức. Cũng vậy, đoạn tham nơi thọ giới, tưởng giới, hành giới và thức giới bình thường. Không sở y, thức không tăng thịnh, không hiện hành, được giải thoát; được giải thoát nên thức an trú; do an trú, nên tri túc; do tri túc, nên không ưu não; do không ưu não nên tự tác chứng Niết-bàn. Upaya[3] Sutta Saṃyutta-nikāya dịch Anh Niết-bàn và thức quang minh, bất khả kiến Trong đoạn trích này, có vẻ đức Phật đặt một loại thức vào vị trí thường được dành cho Niết-bàn, dù rằng chú giải về đoạn này nói thức’ trong câu đầu chỉ cho Niết-bàn chỉ được nhận thức bởi thức. Chú ý rằng trong đoạn * tính chất không hiển hiện, không thể thấy, hay vô kiến anidassana là một trong những từ đồng nghĩa với vô vi’ và Niết-bàn’. Hơn nữa, thức vô kiến có vẻ như tương đồng với thức đã ngưng lại hay tịch diệt’ nirodha. Trong khi đoạn này nói về thức tỏa sáng, thì một đoạn về thức diệt hay “được chận đứng” Saṃyutta-nikāya nói về thức này như là một chùm sáng chẳng trụ trên bất cứ đối tượng hữu hạn nào. Các ngụ ý của những đoạn này đã được tranh luận nhiều bởi các giới Phật giáo, vì hầu hết các vị Thượng tọa bộ xem hết thảy các thức là vô thường và hữu vi có lẽ là do nghĩa từ Saṃyutta-nikāya và do đó chẳng phải Niết- bàn. Thức là không thể thấy, vô biên, và toàn diện tỏa sáng.[4] – Ở đây, đất, nước, lửa, gió không chỗ đứng. Ở đây, dài và ngắn, tế, thô, tịnh, bất tịnh không chân đứng, Ở đây, danh và sắc,[5] đều diệt tận vô dư. – Bởi thức diệt, ở đây, cái này cũng diệt. Kevaṭṭa[6] Sutta Dīgha-nikāya dịch Anh A-la-hán siêu việt tử giới Như với đức Phật, trạng thái của một vị A-la-hán vượt ngoài sự chết cũng không được xác định * 11, 21. Không thể nói vị ấy tồn tại’, không tồn tại’, vừa tồn tại vừa không tồn tại’ hay không phải vừa tồn tại vừa không tồn tại’. Bất kì trạng thái của vị ấy là gì, nó cũng nằm ngoài hiện hữu trong thời gian. Bài kệ này được đức Phật nói về sự chết của A-la- hán Bāhiya. Nơi đất, nước, lửa, gió không chỗ trụ, không có sao sáng, cũng không có mặt trời chiếu sáng. không ánh sáng mặt trăng, cũng không bóng tối. Khi ẩn sĩ tự biết, là bà-la-môn tịch mặc giải thoát sắc, vô sắc, lạc và khổ. Bāhiyena Sutta Udāna 9, dịch Anh ĐẠI THỪA Hạnh phúc đời này và đời sau Người theo Đại thừa, cũng như theo Thượng tọa bộ, thấy những thiện nghiệp dẫn đến hạnh phúc lớn hơn trong đời này và dẫn đến những tái sanh tốt. Tuy nhiên, chú trọng tâm từ bi, có nghĩa là tập trung nhấn mạnh vào những hành động mang lại hạnh phúc và giảm bớt sự đau khổ cho những chúng sanh khác. Người đi theo con đường của Bồ-tát thậm chí sẵn sàng từ bỏ việc tái sinh ở những cảnh giới tốt đẹp để có thể ở trong thế gian này mà giúp đỡ chúng sinh; và tương tự như vậy, thậm chí sẵn sàng tái sinh ở địa ngục để có thể giúp đỡ chúng sinh ở đó. Cũng có quan niệm rằng, một số những đức Phật trong cõi Tịnh độ, đặc biệt là đức A-di-đà, đã thiết lập những cõi Tịnh độ’, những điều kiện tuyệt vời dẫn đến an lạc, và là nơi lý tưởng để tu tập chứng ngộ. Vãng sinh ở những cảnh giới như vậy đòi hỏi phải có Tín, mà cũng dựa trên tha lực cứu độ của Phật hữu duyên đức Phật ở cảnh giới đó. Nhiều Phật từ bình dân ở Đông Á khao khát vãng sinh về cảnh giới như vậy. Chứng ngộ tối hậu Đối với một người theo Đại thừa, phát tâm Bồ-đề là phát nguyện mong thành Phật quả, vì lợi ích của những chúng sinh đau khổ khác, là một thời điểm then chốt của tu tập. Sau đó là kiến đạo’, có cái nhìn trực tiếp vào bản chất trống rỗng nhưng huyền diệu của tự tánh, hành giả nhập vào địa thứ nhất trong mười địa của Thánh Bồ-tát. Cho đến địa thứ bảy, hành giả đạt đến trình độ tương tự với A-la-hán. Vào cuối Bồ-tát đạo lâu dài vô tận, Phật quả viên mãn tự nhiên thành. Niết-bàn Niết-bàn là thường nhưng chẳng phải đoạn kiến, cũng chẳng phải thường kiến mà người ta chấp trước Đoạn này nhấn mạnh rằng trong bốn thánh đế, chỉ có đế thứ ba, tương đương với Niết-bàn, là thường. Kinh tiếp tục diễn giải như thế nào mà phàm phu nhận thức sai lầm Phật pháp, và không công nhận người chưa giác ngộ còn phải tái sinh luân hồi, xem Niết-bàn như là hữu thể tồn tại thường hằng, và cũng thấy dòng sát-na tương tục của tâm trong hiện thế như một thực tại thường hằng. Bạch Thế Tôn, trong bốn thánh đế này, ba là vô thường, một là thường. Vì sao? Vì ba đế thuộc vào tướng hữu vi. Những gì thuộc vào tướng hữu vi, là vô thường; những gì vô thường, là pháp hư vọng. Những gì là pháp hư vọng, không phải là đế, không phải là thường, không phải là chỗ quy y. Do đó, khổ đế, tập đế, đạo đế không phải là đệ nhất nghĩa đế, không phải là thường, không phải là chỗ quy y. Một khổ diệt đế lìa tướng hữu vi. Lìa tướng hữu vi, nên là thường. Thường nên, không phải là pháp hư vọng. Không phải là pháp hư vọng nên là đế, nên là thường, là chỗ quy y. Cho nên diệt đế là đệ nhất nghĩa đế. Bất tư nghì, là diệt đế, vượt ngoài đối tượng của hết thảy tâm thức của chúng sinh, và cũng không phải cảnh giới trí tuệ của hết thảy A-la-hán và Bích-chi-phật. Cũng như người mù bẩm sinh không thấy được các sắc, con nít bảy ngày không thấy được mặt trời. Khổ diệt đế cũng như vậy, không phải là sở duyên của tâm thức của hết thảy phàm phu, cũng không phải là cảnh giới trí tuệ của hai thừa.[7] Thức của phàm phu là sự điên đảo của hai kiến chấp. Trí của hết thảy A-la-hán và Bích-chi-Phật thì vốn thanh tịnh. Biên kiến, là phàm phu đối với năm thủ uẩn mà thấy là ngã, vọng tưởng chấp trước, sinh ra hai kiến chấp, đó gọi là biên kiến; tức là thường kiến và đoạn kiến.[8] Thấy rằng các hành là vô thường,[9] ấy là đoạn kiến chứ không phải chánh kiến. Thấy rằng Niết-bàn là thường, ấy là thường kiến chứ không phải chánh kiến. Do vọng tưởng kiến chấp cho nên chủ trương như vầy đối với các căn ở nơi thân, phân biệt, tư duy thấy rằng trong hiện tại chúng hủy hoại, mà không thấy dòng tương tục của sự hữu, do đó khởi lên đoạn kiến. Vì vọng tưởng kiến chấp vậy. Đối với tâm tương tục mà ngu tối, không tỏ rõ, không biết cảnh giới ý thức có gián đoạn trong từng sát-na, nên khởi thường kiến.[10] Vì do vọng tưởng kiến chấp vậy. Vọng tưởng kiến chấp này, đối với nghĩa kia, hoặc thái quá hoặc bất cập, phát sinh phân biệt với những ý tưởng dị biệt, hoặc cho là đoạn hoặc cho là thường. Chúng sanh điên đảo, đối với năm thủ uẩn vốn vô thường mà tưởng là thường, vốn khổ mà tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh. Śrīmālādevī-siṃhanāda Sūtra, Taishō text 353, cf. text 310, pp. 677a29-b23, dịch Anh and Niết-bàn tạm thời và Niết-bàn cứu cánh Đoạn này nêu rằng khi đức Phật nói về Niết-bàn hiện thế và Niết-bàn vượt ngoài sự chết như các A-la-hán chứng đắc, đó là Phật chỉ thuyết Niết-bàn tạm thời, với mục đích khích lệ. Mục đích thực sự, Niết-bàn chân thật, chỉ đạt được khi đã thành một vị Phật viên mãn. Vì vậy chỉ có một thừa duy nhất dẫn đến cứu cánh cao nhất, chứ không phải ba thừa dẫn đến việc thành A-la-hán, Bích-chi-phật, hoặc, ở đỉnh cao của Bồ- tát đạo, thành Phật viên mãn.[11] Con đường cuối cùng là cho tất cả. Bằng các phương tiện thiện xảo của mình, này các tỳ-kheo, chư Như Lai, các bậc A-la-hán, thời xa xưa biết chúng sanh giới, bị lôi cuốn chí hướng hạ liệt, đắm mình trong vũng bùn ái dục. Vì vậy, này các tỳ-kheo, Như Lai thuyết Niết-bàn, khiến cho tín thọ, thắng giải. Này các tỳ-kheo, ví như có một con đường hiểm khó vượt qua, dài năm trăm do-tuần, và có một nhóm đông người muốn vượt qua con đường đó để đến chỗ có kho tàng đại bảo. Họ được dẫn đạo bởi một hướng đạo trí tuệ, đa văn, thông minh, có tài và thiện xảo đối với những khó khăn trong việc băng rừng. Vị này dẫn nhóm đồng hành vào rừng, nhưng mọi người dần mệt mỏi và kiệt sức, lo sợ, và nói rằng, Hỡi vị thánh giả hướng đạo, chúng tôi mệt mỏi và kiệt sức, run sợ lo không thể về lại. Chúng tôi muốn quay về. Con đường rừng khó đi này quá dài!’ Rồi, này các tỳ-kheo, vị hướng đạo biết các phương tiện thiện xảo để vận dụng cho những người muốn quay về, nghĩ rằng, Không thể để cho những kẻ đáng thương này bỏ tàng đại bảo vì chuyện này.’ Thấu hiểu như vậy, vị ấy dùng phương tiện thiện xảo và bằng thần thông hóa hiện ra một tòa thành rộng lớn, cách trung tâm khu rừng một trăm,[12] hai trăm hay ba trăm do-tuần. Rồi vị ấy nói với mọi người rằng, Chớ sợ. Chớ quay về. Đây là một nước lớn. Các người có thể nghỉ ngơi ở đây. Các người có thể làm những gì mình cần ở đây. Các người có thể chứng đắc Niết-bàn ở đây. Hãy dạo chơi ở đây và nghỉ ngơi. Khi các người đã làm xong những gì mình cần, các người hãy tiếp tục đi đến chỗ kho tàng đại bảo.’ Rồi, này các tỳ-kheo, những người đó, một cách đáng kinh ngạc và kì diệu, có cảm tưởng cuối cùng du hành xuyên qua được đoạn đường rừng khó đi, và nói, Chúng tôi đã thoát khỏi con đường rừng khó đi, và chúng tôi sẽ trú tại đây trong Niết-bàn.’ Rồi, này các tỳ-kheo, những người kia vào thành được hóa hiện bởi thần thông, và biết mình đã vào. Họ biết mình đã được cứu. Rồi vị hướng đạo nghĩ, Họ đã bỏ ý định quay về’, và khi vị ấy thấy họ đã nghỉ ngơi đủ, bèn khiến ngôi thành được hóa hiện bằng phương tiện thần thông của mình biến mất. Khi vị ấy khiến nó biến mất, vị ấy nói với mọi người, Hãy đến đây, này các bạn hiền. Kho tàng đại bảo gần đây thôi. Tôi chỉ hóa hiện ra ngôi thành này để các người nghỉ ngơi.’ Cũng như vậy, này các tỳ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác là đạo sư của các ngươi và là đạo sư của hết thảy chúng sanh. Như vậy, này các tỳ-kheo, Như Lai, bậc A- la-hán, chánh đẳng giác thấy rõ các pháp. Có một con đường rừng lớn dài và khó đi của các phiền não cần phải đi qua, du hành, và chinh phục. Nếu họ nghe nói chỉ có một con đường duy nhất của Phật, thời sẽ không tiếp nhận một cách nghiêm trọng, sẽ chẳng đắc bát-Niết-bàn và vượt qua. Thuần thục con đường này của Phật có nhiều sự khó nhọc. Như Lai, do đó, thấy được sự yếu kém của các chúng sanh, như người hướng đạo kia, hóa hiện ra một tòa thành bằng thần thông của mình cho các chúng sanh nghỉ ngơi tại đó. Rồi khi họ đã nghỉ ngơi đủ, Ngài nói với họ, Tòa thành này là hóa hiện’. Chỉ như vậy, này các tỳ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác, bằng phương tiện thiện xảo của mình thuyết và hóa ra hai địa Niết-bàn dọc đường cho các chúng sanh có thể nghỉ ngơi. Đó là địa Niết-bàn của Thanh văn và của Bích-chi-phật. Khi các chúng sanh đạt đến các địa này, này các tỳ-kheo, thời Như Lai tuyên bố, Này các tỳ-kheo, các người vẫn chưa viên mãn mục đích của mình. Các người vẫn chưa làm xong những gì cần phải làm, nhưng các người gần lắm rồi, này các tỳ-kheo. Các người nên quán sát thâm thiết trí tuệ Như Lai. Các người hãy tư duy thâm thiết. Niết-bàn của các người không phải là Niết-bàn chân thật. Này các tỳ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác đã tuyên bố có ba thừa được dùng như phương tiện thiện xảo. … Tỳ-kheo, Ta nói thật, ngươi chưa đắc Niết-bàn. Hãy phát đại tinh tấn, để chứng Nhất thiết trí. Khi đắc Nhất thiết trí, mười lực, các phẩm tánh, của chư Tối Thắng Tôn, khi ngươi được thân Phật, ba mươi hai tướng hảo, bấy giờ ngươi chắc chắn, cũng chứng đắc Niết-bàn. Chư Phật Đại Đạo sư, phương tiện thuyết Niết- bàn, cho chúng sanh nghỉ ngơi. Khi biết nghỉ đã đủ, dẫn thẳng vào Phật trí. Saddharma-puṇḍarīka Sūtra, dịch Anh from Sanskrit by Bát-nhã ba-la-mật quán tất cả như mộng, Niết-bàn cũng như mộng Đoạn này nhấn mạnh bản tánh khó nắm bắt của chân lý như được truyền đạt trong các kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa nó vượt ngoài ngôn từ, dù chỉ biểu thị bản tánh như mộng của các pháp. Một số vị thiên tử trong hội chúng tự nghĩ như vầy, Chúng ta có thể hiểu ngôn từ chương cú của các dạ-xoa, những gì các dạ-xoa nói, dạ-xoa than khóc. Dù vậy chúng ta chẳng hiểu những gì Trưởng lão Subhūti nói, tuyên thuyết, chỉ giáo, diễn giải.’ Tôn giả Subhūti Tu-bồ-đề/Thiện Hiện, bằng tâm của mình mà biết được ý nghĩ trong tâm của các thiên tử, liền bảo họ rằng, Không có gì để hiểu, không có gì để hiểu, này các thiên tử. Cũng không có gì để chỉ bày, không có gì để được nghe.’ Các thiên tử bèn nghĩ rằng, Mong Thánh giả Subhūti giải thích điều này! Mong Thánh giả Subhūti giải thích điều này! Những gì Thánh giả Subhūti đang thâm nhập ở đây, sâu xa hơn cả sâu xa, vi tế hơn cả vi tế. Những gì Thánh giả Subhūti đang thâm nhập, đang chỉ dạy, đang nói, uyên áo hơn cả uyên áo.’ Rồi Tôn giả Subhūti, bằng tâm của mình, biết được ý nghĩ trong tâm của các thiên tử, liền bảo họ mà rằng, Này chư thiên tử, những ai muốn chứng quả Dự lưu, muốn trụ quả Dự lưu, không thể không nhẫn thọ Pháp khó nắm bắt này. Những ai muốn chứng quả Nhất lai, muốn trụ quả Nhất lai, không thể không nhẫn thọ Pháp khó nắm bắt này. Những ai muốn chứng quả Bất hoàn, muốn trụ quả Bất hoàn, không thể không nhẫn thọ Pháp khó nắm bắt này. Những ai muốn chứng quả A-la-hán, muốn trụ quả A-la-hán, không thể không nhẫn thọ Pháp khó nắm bắt này. Những ai muốn chứng quả Bích-chi-phật, muốn trụ quả Bích-chi-phật, không thể không nhẫn thọ Pháp khó nắm bắt này. Những ai muốn chứng Phật quả viên mãn, muốn trụ Phật quả viên mãn, không thể không nhẫn thọ Pháp khó nắm bắt này’ Rồi chư thiên nghĩ rằng, Những người như thế nào là người tùy thuận nghe Thánh giả Subhūti thuyết pháp?’ Rồi Tôn giả Subhūti, bằng tâm của mình, biết được ý nghĩ trong tâm của chư thiên tử, liền bảo họ mà rằng, Những ai nghe tôi thuyết pháp đều như huyễn, như trò huyễn thuật. Vì sao vậy? Vì không có gì để nghe, không có gì để chứng.’ Chư thiên tử lại bạch Tôn giả Subhūti, Phải chăng pháp được nghe là như huyễn, người nghe cũng như huyễn, chúng sanh cũng như huyễn?’ Tôn giả Subhūti bảo chư thiên, Các chúng sanh đều như huyễn, này chư thiên. Chúng sanh thảy đều như mộng, này chư thiên. Huyễn và chúng sanh, không hai, không khác. Tất cả pháp, này chư thiên, đều như huyễn, như mộng. Dự lưu và quả Dự lưu như huyễn, như mộng. Cũng như vậy, Nhất lai và quả Nhất lai, Bất hoàn và quả Bất hoàn, A-la-hán và quả A- la-hán như huyễn, như mộng. Bích-chi-phật như huyễn, như mộng. Quả Bích-chi-phật như huyễn, như mộng. Phật Vô thượng Chánh đẳng bô-đề như huyễn, như mộng. Quả Phật Phật Vô thượng Chánh đẳng bô-đề như huyễn, như mộng.’ Chư thiên bạch Tôn giả Subhūti, Bạch Thánh giả Subhūti, phải chăng Ngài nói rằng cho đến Phật Vô thượng Chánh đẳng bồ-đề cũng như huyễn, như mộng? Phải chăng Ngài nói rằng quả Phật Vô thượng Chánh đẳng bồ-đề như huyễn, như mộng?’ Ngài Subhūti nói, Tôi, cho đến Niết-bàn, này chư thiên, cũng như huyễn, như mộng, các pháp khác cũng nhất thiết như vậy.’ Chư thiên bạch, Bạch Thánh giả Subhūti, phải chăng Ngài nói rằng cho đến Niết-bàn cũng như huyễn, như mộng?’ Tôn giả Subhūti bảo, Này chư thiên, giả sử có pháp nào thù thắng hơn cả Niết-bàn, tôi cũng nói rằng chính pháp ấy cũng như huyễn, như mộng. Huyễn và Niết-bàn, không hai, không khác. Mộng và Niết-bàn, không hai, không khác.’ Bấy giờ Tôn giả Śāriputra Xá-lợi-phất? Xá-lợi Tử, Tôn giả Pūrṇa, con trai của bà Maitrāyaṇī Mãn Từ Tử, Tôn giả Mahā-koṣṭhila Ma-ha-câu-hi-la/ Chấp Đại Tàng, Tôn giả Mahā-kātyāyana Ma-ha Ca-chiên-diên, Tôn giả Mahā- kāśapa Ma-ha Ca-diếp/Ẩm Quang, và các đại Thanh văn khác cùng với nhiều ngàn chư Bồ-tát, nói với Tôn giả Trưởng lão Subhūti rằng, Thưa Tôn giả Subhūti, ai có thể tín thọ Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm này?’ Tôn giả Ānanda liền nói với các vị Trưởng lão ấy, Thưa chư Tôn giả, các Bồ-tát ma-ha-tát bất thoái chuyển, cụ túc chánh kiến, hay các A-la-hán lậu tận viên mãn nguyện có thể tín thọ Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm này.’ Tôn giả Trưởng lão Subhūti khi ấy nói với các vị trưởng lão, Thưa chư Tôn giả, không ai có thể tín thọ Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm này. Vì sao vậy? Không pháp nào được nói, không có pháp nào được hiển hiện, không có pháp nào được hiển thị. Vì không pháp nào được nói, không có pháp nào được hiển hiện, không có pháp nào được hiển thị ở đây, cho nên cũng không có người có thể tín thọ Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm này.’ Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra, dịch Anh from Sanskrit by Phật, Đại Bồ-tát, không trụ Niết-bàn, không trụ sanh tử Nếu thấy tất cả pháp Bản tánh như Niết-bàn Như vậy là thấy Phật Rốt ráo không chỗ trụ. Ví như thuyền sư, không trụ bờ này, không trụ bờ kia, không trụ giữa dòng, có thể thường qua lại giữa các bờ mà đưa người từ bờ này sang bờ kia. Cũng như vậy, Bồ-tát ma-ha-tát, không trụ sanh tử, không trụ Niết-bàn, cũng không trụ ở giữa, do vậy có thể đưa chúng sanh đang ở bờ này sang bờ bên kia, nơi không có nguy hiểm, và không có ưu não. Avataṃsaka Sūtra, Taishō text 279, and 107c, dịch Anh and Phật quả là dành cho những người đấu tranh trong phiền não Đoạn này quan niệm quả Phật toàn giác đắc được bởi những ai vẫn còn gần gũi với chúng sinh và những phiền não của họ, và từ bi giúp họ tiến lên phía trước. Văn-thù-sư-lợi đáp “Này thiện gia nam tử, người thấy vô vi, nhập chánh tánh quyết định, sẽ không thể phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Ai chưa thấy Thánh đế, trụ hữu vi, gia trạch phiền não, người ấy sẽ có thể phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Ví như, này thiện gia nam tử, các loại hoa thơm như sen xanh, sen hồng, thủy bách hợp, và sen trắng không mọc ở trên đất khô cằn; chúng chỉ mọc nơi chỗ bùn lầy. Cũng vậy, này thiện gia nam tử, các phẩm tánh của Phật không sanh trưởng trong những ai đã nhập chánh tánh, thấy vô vi. Các phẩm tánh của Phật sanh trưởng trong những chúng sanh đang ở trong những bùn lầy phiền não. Cũng như hạt giống không thể nảy mầm giữa hư không; mà chỉ có thể này mầm trong đất phân. Cho nên, người khởi hữu thân kiến lớn như núi Tu-di cũng có thể phát tâm bồ-đề.[13] Từ đó sanh trưởng các Phật pháp. Này thiện gia nam tử, bằng pháp môn này, ông nên hiểu như vậy. Nên biết hết thảy phiền não đều là chủng tính của Như Lai. Ví như, này thiện gia nam tử, người không lặn xuống biển sâu thì không tìm được ngọc trai vô giá. Cũng vậy, người không vào nhà phiền não sẽ không tìm được ngọc Nhất thiết trí. Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, section 3, dịch Anh from Sanskrit by Phật quả Phật quả do chứng đắc – hay có sẵn? Đoạn này được Duy-ma-cật thuyết trước đức Di-lặc Maitreya, mà truyền thuyết nói là vị Bồ-tát sẽ thành Phật tương lai xuất hiện trên trái đất này, sau khi giáo pháp của đức Phật Thích-ca lịch sử biến mất. Đoạn này nêu rằng tất cả chúng sanh đều có sẵn bản tánh giác ngộ; nếu đã có sẵn, thì điều cần biết là phải làm gì để chứng đắc. Thưa Ngài Di-lặc, Phật đã thọ ký rằng Ngài sẽ thành Vô thượng Chánh giác; đó là bằng Như tính sanh mà thọ ký, hay bằng Như tính diệt mà thọ ký? Như tính vốn không sinh, cũng không diệt. Như tính của tất cả chúng sanh là Như tính của hết thảy pháp, và đó cũng là Như tính của Di-lặc. Như vậy, nếu Ngài được thọ ký sẽ chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, thì hết thảy chúng sanh cũng được thọ ký sẽ chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì sao? Vì Như tính không hiển hiện bởi nhị nguyên, cũng không hiển hiện bởi đa nguyên. Vậy thì, khi Di-lặc chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, thì hết thảy chúng sanh đồng thời cũng chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì sao? Giác ngộ là chúng sanh tùy giác. Khi Di-lạc nhập cứu cánh Niết-bàn thì hết thảy chúng sanh cũng nhập cứu cánh Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì chúng sanh chưa nhập cứu cánh Niết-bàn thì chư Như Lai cũng không nhập cứu cánh Niết-bàn. Chư Như Lai thấy tất cả chúng sanh đều đã nhập Niết-bàn vì tự tánh Niết-bàn. Vì thế, thưa Ngài Di-lặc, không nên dụ hoặc chư Thiên, không nên nói những điều vi bội này. Không có ai an trụ trong bồ-đề, cũng không có ai thối lui. Di- lặc hãy nên khiến cho các thiên tử này xả bỏ những kiến chấp phân biệt bồ-đề này. Bồ-đề không thể được hiện chứng bởi thân, không thể được hiện chứng bởi tâm. Bồ-đề là tịch diệt của tất cả các tướng. Bồ-đề là không tăng chấp, vì lìa ngoài tất cả sở duyên. Bồ-đề là không sở hành, vì nó dứt tuyệt tất cả tác ý. Bồ-đề là đoạn, vì đoạn tuyệt tất cả mọi kiến chấp. Bồ-đề là xả ly, vì xả ly phân biệt vọng tưởng. Bồ-đề là ly hệ, vì viễn ly tất cả động loạn. Bồ-đề là không y xứ, vì không y chỉ tất cả nguyện. Bồ-đề là thú nhập vô trước, vì không viễn ly mọi chấp thủ. Bồ-đề là an trụ, vì trụ pháp giới. Bồ-đề là tuỳ thuận, vì thuận với Như tánh. Bồ-đề là kiến lập, vì kiến lập thật tế. Bồ-đề là không hai, vì viễn ly ý pháp. … Sūtra, sections 51–52, dịch Anh from Sanskrit by Phật quả là đạt đến sự hoàn hảo các đức tính của một vị Bồ-tát Đoạn này cũng trích từ kinh như trên, xem Phật quả như là những biểu hiện đầy đủ các phẩm tính của Bồ-tát. Bồ-đề tràng đạo tràng nghĩa là gì? Này thiện nam tử, ý lạc ý chí hướng thượng/ trực tâm là bồ đề tràng, vì đây không hư giả. Phát khởi gia hành là đạo tràng, vì thành biện nỗ lực. Tăng thượng ý lạc thâm tâm là đạo tràng, vì đạt được công đức thù thắng. Bồ-đề tâm là đạo tràng, vì không quên lãng hết thảy pháp. Bố thí là đạo tràng, vì không cầu dị thục quả. Tịnh giới là đạo tràng, vì viên mãn như nguyện. Nhẫn nhục là đạo tràng, vì không có tâm gia hại đối với hết thảy chúng sanh. Tinh tấn là đạo tràng, vì lìa xa biếng nhác. Tĩnh lự là đạo tràng, vì tâm nhu thuận kham năng. Trí tuệ là đạo tràng, vì trực kiến các pháp. Từ tâm là đạo tràng, vì tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh. Bi tâm là đạo tràng, vì nhẫn nại các khổ nhọc. Hỷ tâm là đạo tràng, vì là khoái lạc trong vườn pháp. Xả tâm là đạo tràng, vì dứt bỏ yêu ghét. Thần thông là đạo tràng, vì thành tựu sáu thần thông. Giải thoát là đạo tràng, vì lìa vọng tưởng phân biệt. Phương tiện là đạo tràng, vì giáo hoá thuần thục chúng sinh. Bốn nhiếp sự[14] là đạo tràng, vì đoàn kết chúng sinh. Đa văn là đạo tràng, vì là kiên cố hành trì. Thiện tư duy là đạo tràng, vì quán sát như lý. Bồ-đề phần[15] là đạo tràng, vì xả bỏ các pháp hữu vi và vô vi Chân đế là đạo tràng, vì không dối gạt thế gian. Duyên khởi là đạo tràng, vì đã diệt tận hữu lậu từ vô minh đến già- chết.[16] Phiền não tịch tĩnh là đạo tràng, vì biết như thật. Tất cả chúng sinh là đạo tràng, vì chúng sanh không tự tánh. Tất cả pháp là đạo tràng, vì hiện chứng tánh Không. Hàng phục chúng ma là đạo tràng, vì không khuynh động. Tam giới[17] là đạo tràng, vì không định hướng phải đến. Dũng mãnh sư tử hống là đạo tràng, vì không có gì để kinh sợ. Mười lực, bốn vô sở uý và mười tám pháp bất cộng của Phật là đạo tràng, vì không có gì khuyết điểm. Ba minh[18] là đạo tràng, vì diệt tận phiền não không sót. Một niệm chứng tri tất cả pháp là đạo tràng, vì thành nhất thiết trí. Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, sections 54–59, dịch Anh from Sanskrit by Phật A-di-đà Amitābha Đoạn này nói về cảnh giới kỳ diệu của đức Phật A-di-đà Vô Lượng Quang/ Vô Lượng Thọ, có thể vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật bằng chánh tín. Đoạn này cũng đề cập đến nhiều đức Phật khác trong khắp vũ trụ rộng lớn. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói với Xá-lợi-phất, Này Xá-lợi- phất, ở phương Tây, cách đây quá mười muôn ức cõi Phật, có một quốc độ gọi là Cực Lạc, có đức Như Lai, bậc A-la-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác hiệu A-di-đà, hiện đang ở đó, thuyết pháp… Lại nữa, Xá-lợi-phất, trong cõi Phật đó, nhạc trời thường trỗi, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn-đà- la. Mỗi ngày đúng thời, trước mỗi bữa ăn, chúng sanh ở đó du hành đến các cõi nước khác và cúng dường muôn ức đức Phật… Lại nữa, Xá-lợi-phất, ở cõi Phật đó… có các loài chim hót lên những lời Pháp, thảy đều do thần lực của đức Phật Vô Lượng Thọ. Này Xá-lợi-phất, cõi Phật đó được trang nghiêm bởi tất cả những thứ kỳ diệu này. Lại nữa, Xá-lợi- phất, ở cõi Phật đó, khi gió nhẹ thổi lay động các hàng cây báu và động mành lưới chuông báu, phát ra âm thanh vi diệu làm dịu tâm trí… Khi chúng sinh ở đó nghe những âm thanh đó, thảy đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng… Này Xá-lợi-phất, ông nghĩ sao,vì sao đức Phật đó có hiệu là Vô Lượng Thọ’? Này Xá-lợi-phất, tuổi thọ của đức Phật đó và nhân dân ở cõi đó là vô lượng, vì thế nên hiệu là Vô Lượng Thọ’. Đức Phật đó đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tính đến nay đã được mười kiếp. Này Xá-lợi-phất, ông nghĩ sao, vì sao đức Phật đó hiệu là Vô Lượng Quang’? Này Xá-lợi-phất, đức Phật đó có ánh sáng chiếu sáng vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại, vì thế nên hiệu là Vô Lượng Quang’. Đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bậc A-la-hán, chẳng phải tính đếm có thể biết được. Này Xá-lợi-phất, cõi Phật đó được trang nghiêm bởi tất cả những thứ kỳ diệu này. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Những chúng sinh sinh về cõi Phật đó, thành Bồ-tát bất thối chuyển, nhất sanh bổ xứ; số Bồ-tát này rất đông, chẳng phải tính đếm có thể biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên vô số để nói thôi. Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nên phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì ở cõi Phật đó, họ sẽ cùng câu hội một chỗ với các bậc Thượng thiện nhơn như những bậc Bồ-tát này. Này Xá-lợi-phất, chúng sanh có chút ít thiện căn phước đức thì không thể sanh về cõi của đức Phật Vô Lượng Thọ đó. Nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhơn nào nghe đến danh hiệu của đức Phật Vô Lượng Thọ, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, trong một ngày đêm, hai ngày đêm, ba ngày đêm, bốn ngày đêm, năm ngày đêm, sáu ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nhất tâm không tạp loạn, thời khi lúc lâm chung, đức Phật Vô Lượng Thọ cùng hàng Thánh chúng và hội chúng Bồ-tát hiện thân ở trước người đó. Người ấy lúc lâm chung tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. Do đó, Xá-lợi-phất, vì những lợi ích như thế mà Ta nói rằng thiện nam tử, thiện nữ nhơn nên nhất tâm phát nguyện cầu sanh về cõi Phật đó. Này Xá-lợi-phất, ở về phương Đông… phương Nam,… phương Tây,… phương Bắc,… phương dưới,… phương trên, hằng hà sa số những đức Phật như số cát trong sông Hằng, bằng tướng lưỡi rộng dài trùm khắp các quốc độ của mình mà nói lời chân thật như vầy Các ngươi hãy tín thọ pháp môn này có tên là Xưng tán công đức bất khả tư nghị được tất cả chư Phật hộ niệm’… Này Xá-lợi-phất,ý ông nghĩ sao, vì sao kinh này được gọi là “Nhất thiết chư Phật sở hộ niệm”? Này Xá-lợi-phất, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh này và danh hiệu của chư Phật đó mà thọ trì, thời những người ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên, này Xá-lợi-phất, ông nên có tín tâm nơi Ta cũng như nơi những đức Phật này. Sukhāvatī-vyūhaḥ Saṃkṣipta-mātṛkā, also known as the Smaller Sukhāvatī-vyūha Sūtra, dịch Anh from Sanskrit by Tịnh Độ Đoạn * mô tả những đặc tính kỳ diệu của cõi Tịnh Độ của đức Phật A-di-đà, và đoạn * mô tả sự quán tưởng về đức Phật A-di-đà. M 159 Những đặc tính của cõi Tịnh Độ của Phật A-di-đà Đoạn này đưa ra một số trong bốn mươi sáu[19] lời nguyện của Tỳ-kheo Pháp-tạng Dharmākara, vị Bồ-tát được nói là đã thành Phật hiệu A-di-đà, những lời nguyện này nêu rõ những lợi ích mà Ngài sẽ đảm bảo tồn tại trong cõi Tịnh Độ của mình Ngài phát thệ rằng bao giờ những nguyện mà chưa thành tựu thì Ngài quyết định chưa thành Phật. Bạch đức Thế Tôn,[20] nếu ở quốc độ Phật của con còn những cảnh địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, nếu chúng sanh sinh trong quốc độ Phật của con, sau khi mạng chung mà còn rơi vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ hoặc a-tu-la, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức thế Tôn, nếu những chúng sanh đã sinh ở quốc độ Phật của con mà hết thảy không có năng lực tối thượng thần thông tự tại,[21]để có thể chỉ trong một sát-na có thể vượt qua trăm ngàn ức triệu quốc độ Phật, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, nếu những chúng sanh đã sinh ở quốc độ Phật của con mà hết thảy không có được túc mạng thông, nhớ biết đời trước của mình, trăm ngàn ức triệu đời, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, nếu những chúng sinh trong quốc độ Phật của con, mà hết thảy họ không đạt được thiên nhãn thông, có thể thấy trăm ngàn ức triệu thế giới, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, nếu những chúng sanh sinh trong quốc độ Phật của con,mà hết thảy họ không đạt được thiên nhĩ thông, cùng một lúc có thể nghe được Chánh pháp trong trăm ngàn ức triệu cõi Phật, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, nếu những chúng sanh sinh trong quốc độ Phật của con, mà hết thảy họ không có tha tâm thông, có thể biết tâm hành của những chúng sanh trong trăm ngàn ức triệu cõi Phật, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, nếu những chúng sanh sinh trong quốc độ Phật của con, mà còn khởi tâm niệm sở hữu, ngay cả với thân thể, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, nếu những chúng sanh sinh trong quốc độ Phật của con, mà không có được an trụ kiên cố trong chánh định tụ, cho đến cứu cánh tịch diệt, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, khi con chứng đắc bồ-đề, nếu mà thọ mạng của con có hạn lượng, ngay cả khi là có hạn lượng chừng trăm ngàn ức triệu kiếp, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, khi con chứng đắc bồ-đề, nếu có chúng sanh nào trong quốc độ Phật của con mà còn nghe đến từ “bất thiện”, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, khi con chứng đắc bồ-đề, nếu có chúng sanh nào ở thế giới khác, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghe danh hiệu của con, chí tâm trì niệm danh hiệu con, những chúng sanh ấy trong lúc lâm chung mà con không xuất hiện trước mặt họ cùng với chư Thánh tăng bao quanh, để tiếp dẫn, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, nếu chúng sanh trong vô lượng vô số cõi Phật nghe danh hiệu của con, phát khởi thiện căn và hồi hướng công đức thiện căn muốn vãng sinh về quốc độ Phật của con mà không được vãng sanh về đó, chỉ niệm danh hiệu con mười lần,[22]con nguyện không thành Chánh giác. Ngoại trừ những chúng sanh phạm tội ngũ nghịch[23] và tội phỉ báng Chánh pháp.[24] Bạch đức Thế Tôn, khi con chứng đắc bồ-đề, nếu những chúng sanh sinh ở quốc độ Phật của con không phải chỉ một đời nữa là chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, con nguyện không thành Chánh trừ những Bồ-tát Đại sĩ, những người đã phát nguyện lớn, mặc áo giáp kiên cố, vì lợi ích và giác ngộ cho hết thảy thế gian, thực hành Bồ-tát đạo trong tất cả các cõi nước, vì thệ nguyện phụng sự tất cả chư Phật, an trú chúng sanh nhiều như số cát trong sông Hằng ở nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện tu thù thắng hạnh, và những người đã hoàn hảo sự tu tập vì lợi ích chung… Bạch đức Thế Tôn, khi con chứng đắc bồ-đề, nếu quốc độ Phật của con không soi chiếu vô lượng, vô số, không thể tính kể, không thể nghĩ bàn cõi nước Phật, như chiếc gương sáng soi hình khuôn mặt rõ ràng… con nguyện không thành Chánh giác… Bạch đức Thế Tôn, khi con chứng đắc bồ-đề, nếu chúng sanh trong vô lượng, vô số, không thể tính kể, không thể nghĩ bàn cõi nước Phật được xúc chạm đến ánh sáng của con mà không tràn đầy an lạc siêu việt trời người, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, khi con chứng đắc bồ-đề, khi mà chúng sanh sinh ra trong quốc độ Phật của con mà không được hưởng an lạc của Tỳ-kheo A-la-hán lậu tận, an trú tĩnh lự thứ ba, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, khi còn chứng đắc bồ-đề, nếu chúng sanh trong quốc độ Phật của con khi nghĩ tưởng muốn nghe Pháp chân thật mà không được nghe, con nguyện không thành Chánh giác. Bạch đức Thế Tôn, khi con chứng đắc bồ-đề, nếu các vị Bồ-tát ở quốc độ Phật của con, hoặc ở bất kỳ quốc độ Phật nào, khi nghe đến danh hiệu của con mà không được bất thối chuyển, con nguyện không thành Chánh giác. Sukhāvatī-vyūhaḥ Vistara-mātṛkā also known as the Larger Sukhāvatī-vyūha Sūtra, dịch Anh from Sanskrit by KIM CANG THỪA Hạnh phúc đời này và đời sau Quả của thiện nghiệp Đoạn tiếp theo đoạn nói về bản chất của mười thiện nghiệp * và mô tả các quả do nghiệp này là những cảm nghiệm tương xứng với các nhân của chúng, theo quả đẳng lưu của nghiệp. Quả dị thục do hành mười thiện nghiệp là ngươi sẽ được tái sanh vào một trong ba thiện thú nhân loại, a-tu-la, và thiên. Quả đồng hành đẳng lưu là đời đời kiếp kiếp ngươi hoan hỷ hành thiện, thiện căn càng lúc càng tăng trưởng. Quả cảm thọ đẳng lưu của mười thiện nghiệp như sau đoạn trừ sát sanh, được trường thọ, ít bệnh. Không trộn cướp, lấy những thứ chẳng được cho, quả báo thọ dụng sung túc, không bị trộm cắp, giặc cướp. Đoạn trừ tà dâm, quả báo vợ chồng xinh đẹp, không có tình địch. Đoạn trừ vọng ngữ, được mọi người ca tụng và yêu chuộng. Đoạn trừ ly gián ngữ, được thân quyến bằng hữu ái kỉnh. Đoạn trừ ác ngữ, thường được nghe lời dịu ngọt êm tai. Đoạn trừ tạp uế ngữ, quả báo lời nói có uy lực. Đoạn trừ tham tâm, sở nguyện được viên mãn. Đoạn trừ hại tâm, quả báo tránh được tổn hại. Cuối cùng, đoạn trừ tà kiến, quả báo có được chánh kiến. The Words of My Perfect Teacher, dịch Anh Chứng ngộ tối hậu Milarepa chứng đạo ca Trong đoạn này, Milarepa ca bài ca chứng ngộ tối hậu mà Ngài đã đạt được khi an cư trên núi. Ngài hát về đức tự tín vô sở úy của Phật, đã vượt qua tất cả những nhị biên –phân biệt thời gian của quá khứ và tương lai, phân biệt sanh tử và Niết-bàn; và cả đến phân biệt thị phi một khi chứng đắc cảnh giới bất nhị của Phật, lợi ích của chúng sinh sẽ được viên mãn tự nhiên mà không cần phải có những phân biệt theo quan niệm người đời. Khi ta tu hành ở tha phương, ta đã đắc định giải pháp vô sanh; đoạn trừ tất cả đều thanh tịnh, hai chấp đời trước và đời sau, cứu cánh giải thoát khỏi sáu nẻo. Bởi cắt đứt hệ phược sanh tử, triệt ngộ các pháp bình đẳng tánh, thanh tịnh hai chấp khổ và lạc, giải thoát lãnh thọ thức hư giả. Bởi chém đứt hai chấp thủ xả, khế nhập các pháp không biệt cảnh, đoạn chất sanh tử và Niết-bàn, giải thoát huyễn hành đạo và địa, viễn ly mong cầu và sợ hãi, vĩnh viễn đoạn nghi tâm an lạc. One Hundred Thousand Songs of Milarepa, dịch Anh Niết-bàn Tự tánh giải thoát là Niết-bàn Tiếp tục từ bản văn về trung đạo như là sự giải thoát khỏi hai cực đoan của sự tồn tại và không tồn tại đoạn * đoạn này mô tả bản chất của Niết-bàn theo một cách tương tự. Nhưng nếu hiện tượng tất cả pháp của luân hồi không phải hữu bhāva hay vô abhāva, phi hữu, vô thể, thì Niết-bàn là hữu hay vô? Một số luận sư suy lý rằng Niết-bàn ắt phải là hữu. Tuy nhiên, không phải vậy. Như Long Thọ thuyết trong Bảo Man Luận’, Nếu Niết-bàn không phải là vô, thì làm sao có thể là hữu?’ RV Nếu Niết-bàn là hữu bhāva, thì Niết-bàn phải là pháp hữu vi saṃskṛta; và nếu là hữu vi, thì cuối cùng cũng phải diệt. Như thuyết trong Căn bản Trung quán luận’ của Long Thọ Nếu Niết-bàn là hữu, Niết-bàn hẳn hữu vi’, MMK và tương tự. Niết-bàn cũng không thể là vô. Như được nói trong luận dẫn trên, Vô cũng không thể’ MMK Có thể hỏi rằng Niết-bàn thực sự là gì. Nói Niết-bàn, đó là vượt ngoài ngôn thuyết và tư duy vốn chấp hữu, chấp vô. Như trong Bảo man luận’ nói Đoạn trừ chấp hữu và chấp vô, ta nói đó là Niết-bàn’ RV Nhập Bồ-tát hành’ cũng nói, Khi hữu vô không trụ trước tâm trí, khi ấy không có tướng tha thể, tịch tĩnh không sở duyên’ BCA Kinh Phạm thiên sở vấn’ nói Niết-bàn viên diệu là tất cả tướng đều tịch tĩnh,[25] thoát ly mọi dao động.’ Kinh Diệu pháp liên hoa’ nói Này Ca-diếp, liễu tri bình đẳng tánh Không tánh của hết thảy các pháp, đó là Niết-bàn.’ Do đó, Niết-bàn duy chỉ là sự tĩnh chỉ của tâm lưu chuyển, không phải là những pháp sanh, diệt, thủ xả, Do vậy, Căn bản Trung luận’ nói Không thủ cũng không xả, không đoạn cũng không thường, không sanh cũng không diệt, ấy gọi là Niết-bàn.’ MMK Bởi không sanh diệt, thủ xả các thứ, nên Niết-bàn không phải là tự tác, không tác thành, không chuyển biến. Kinh Hư không bảo’ cũng xác quyết rằng, Không gì để đoạn trừ, không chút gì để lập; như thực thấy thật tánh, là chánh kiến giải thoát.’ The Jewel Ornament of Liberation, dịch Anh Sở hành của Phật Tự nhiên hiển hiện Chương cuối cùng của Giải thoát trang nghiêm bảo’ mô tả các hoạt động tự phát của thân, ngữ, và ý đức Phật, sử dụng một số gợi ý từ Bảo tánh luận Uttaratantra UT để mô tả như thế nào đức Phật biểu hiện tất cả những hành động tự phát từ tâm vô phân biệt, đáp ứng nhu cầu đa dạng của chúng sinh. Khởi đầu phát bồ-đề tâm, trung gian tu tập đạo và cuối cùng thành tựu Phật quả, thảy đều vì mục đích diệt trừ khổ và thành tựu lạc cho chúng sanh. Khi thành Phật, an trụ vô phân biệt[26] và vô công dụng hành không dụng công. Tuy vô phân biệt và không dụng công, không nghĩ rằng Ta phải làm lợi ích cho chúng sanh, nhưng vẫn thành sự nghiệp lợi tha tự nhiên và không gián đoạn. Điều này phát sanh như thế nào? Tổng yếu mà nói, vì lợi ích chúng sanh, Thân hành vô phân biệt; cũng vậy, lợi ích chúng sanh ngữ ý, hành vô phân biệt. Tổng yếu chư Phật ba sự nghiệp. Bằng thân, ngữ, ý vô phân biệt mà lợi lạc chúng sanh, như được diễn tả bằng một số thí dụ trong Vô Thượng Mật Tục Uttaratantra Như Thiên đế Indra, trống, mây, và Phạm, như mặt trời, như ý bảo châu; Như Lai như tiếng vang, như hư không và đất.’ UT The Jewel Ornament of Liberation, dịch Anh Sở hành của Phật thân Hiển hiện như Thiên đế’, đây là thí dụ thân Phật hoạt dụng vô phân biệt vì lợi ích chúng sanh. Thiên đế, chúa tể của chư thiên, ngự trong cung điện Chiến thắng, cùng với các thiên nữ tùy tùng. Cung điện này được làm bằng tự tánh lưu ly thanh tịnh và trong sáng, vì vậy ảnh tượng của Thiên đế hiện ra bên ngoài cung điện. Từ dưới đất, những người nam nữ sống ở đây có thể thấy được ảnh tượng của Thiên đế cùng với các thọ dụng. Mong sớm được như vậy, những người này phát nguyện và hành thiện vì mục đích ấy, cho nên sau khi mạng chung tái sanh lên cõi ấy. Ảnh hiện của Thiên đế không có niệm phân biệt hay chuyển động, nhưng nó vẫn khích lệ tín tâm và phát nguyện hướng thượng với những ai nhìn thấy. Cũng vậy, những ai nhìn thấy thân tướng trang nghiêm, như đi, đứng, ngồi, nằm, thuyết Pháp, hay tọa thiền, của thân Phật, hiển hiện với các tướng hảo và các tùy hình hảo, tâm liền phát sanh thành tín ngưỡng mộ. Họ phát bồ-đề tâm và khởi sự hành đạo để thành tựu như vậy, rồi cuối cùng cũng đắc thành Phật quả – tuy thế mà hiện tướng bên ngoài của Phật thân không hề có niệm phân biệt hay chuyển động. Như lời rằng, Trong thiên cung lưu ly thanh tịnh, phóng chiếu thân Thiên đế Thích, khiến chúng sanh gieo trồng phước điền, diệu thân Năng Nhân cũng như vậy, ai thấy thảy đều nhập bồ-đề’ UT Như vậy, Phật thân hành động vì lợi sanh mà không khởi niệm phân biệt. The Jewel Ornament of Liberation, dịch Anh Sở hành của Phật ngữ Như trống trời’, thí dụ cho Phật ngữ hành vô phân biệt vì lợi ích chúng sanh. Trên nóc cung điện Chiến thắng của Thiên đế Thích có một chiếc trống trời gọi là “Trì pháp lực”, thành tựu bởi lực của thiện nghiệp mà chư thiên đã hành trong quá khứ. Dù không có niệm phân biệt nào, trống vẫn luôn bằng cách vang rền âm thanh bốn pháp ấn để cảnh giác chư thiên hay buông lung Các hành là vô thường. Các pháp đều vô ngã. Hữu lậu thảy là khổ. Niết-bàn là tịch tĩnh.’ Như được nói rằng, Chư thiên do thiện nghiệp đời trước, cảm sanh trống pháp pháp cổ trong thiên giới, không ngớt diễn xướng bốn pháp ấn, vô thường, khổ, vô ngã, tịch tĩnh, sách tấn chư thiên hay buông lung, dụng công, và trụ, và sắc tâm.’ UT Cũng vậy, dù không dụng công hay niệm phân biệt, Phật ngữ hiển hiện thuyết pháp cho chúng sanh hữu duyên tùy theo căn cơ cách thích hợp. Như nói rằng, Như đây, [Pháp thân] biến mãn vô công dụng, viễn ly nhưng hành khắp mọi chốn. Phật ngữ biến mãn không ngoại trừ,vì chúng hữu duyên mà thuyết pháp.’ Như vậy là Phật ngữ hành vô phân biệt vì lợi sanh. The Jewel Ornament of Liberation’, dịch Anh Sở hành của Phật ý Như mây’, thí dụ cho Phật ý hành vô phân biệt vì lợi ích chúng sanh, như mây tụ trên trời mùa hạ mà không cố ý dụng công, mưa xuống đất rộng mà không có niệm phân biệt, tạo nên cây cỏ mùa màng sinh trưởng tốt tươi. Lời rằng, Ví như mây trời hạ, liên tục không dụng công, đổ mưa khắp đại địa, giúp cây cối sanh trưởng.’ UT Cũng vậy, sở hành của Phật ý bằng vô phân biệt mà tuôn mưa Pháp xuống chúng sanh đáng hóa độ, khiến cho mùa thu hoạch của thiện được sanh trưởng và chín. Như lời rằng, Như mưa đại bi vô phân biệt, tuôn xuống cơn mưa Tối thắng giáo, chín muồi mùa thiện của chúng sanh. UT Như vậy là sở hành của Phật ý vô phân biệt vì lợi ích chúng sanh. Như Phạm thiên’, Phạm thiên, vua của chư thiên, không di chuyển khỏi Phạm cung mà hiện thân trong tất cả thiên giới. Cũng vậy, Pháp thân bất động, những vì lợi ích của các sở hoá hữu tình mà thị hiện mười hai tướng thành đạo-Niết- bàn[27]. Như nói rằng, Không dụng công, không rời Phạm thế, Phạm hiện thân ngay trong thiên cung. Đấng Tối Thắng, Pháp thân bất động, thị hiện biến mãn khắp các cõi, thuyết pháp giáo hóa chúng hữu duyên.’UT Như mặt trời’ tia sáng mặt trời có thể khiến cho các loại hoa, hoa sen các thứ vô vàn chúng loại, cùng nhất tề nở rộ, mà không có niệm phân biệt. Cũng vậy, ánh sáng diệu pháp của Phật, bằng vô phân biệt và vô công dụng hành, cũng làm nở rộ những đóa hoa sen của vô lượng chủng loại tín giải của chúng sanh đáng hóa độ. Như nói rằng, Mặt trời, ánh sáng vô phân biệt, hoa sen các loài đồng nở rộ; cũng vậy, mặt trời vô phân biệt, Như Lai áng sáng vi diệu pháp,chúng sanh sở hóa nở tâm hoa.’ UT Thí dụ khác, như mặt trời rọi bóng đồng nhau trong mọi chậu nước trong, Phật cũng thị hiện đồng thời cho tất cả các sở hóa có kiến thanh tịnh. Như lời rằng, Do đây, vô lượng nhật quang của Thiện Thệ, rọi bóng đồng thời mọi chậu nước, của hữu tính sở hóa thanh tịnh.’ UT Như như ý bảo châu’, dù như ý bảo châu tự thân không có niệm phân biệt, không dụng, mà viên mãn ước nguyện của ai thỉnh cầu. Cũng như vậy, nương theo Phật, các hàng Thanh văn đệ tử thành tựu mục đích theo sở nguyện. Như lời rằng, Như ý châu vô phân biệt, đồng thời viên mãn mọi sở nguyện, những ai an trụ sở hành cảnh; cũng vậy, Phật như ý bảo châu, viên mãn như nguyện vô phân biệt, cho ai mong cầu nghe diệu pháp.’ UT Âm vang, đại địa, và hư không cũng là những thí dụ cho sở hành vô phân biệt của Phật vì lợi ích chúng sanh. The Jewel Ornament of Liberation, dịch Anh ________________________________ [1] Bốn đại, tức bốn yếu tố cơ bản của vật chất. [2] Bốn định vô sắc và tương ứng với bốn cõi, vượt ngoài cả các vi tế sắc. [3] Trong vài truyền thống thủ bản gọi là Upāya. [4] Dù rằng trong vài thủ bản, pabhaṃ quang huy’ đọc là pahaṃ, có thể mang nghĩa là biến thông hết thảy xứ’. [5] Đây có lẽ chỉ cho danh và sắc’ bao gồm cả liên kết thứ tư trong duyên khởi, được duyên bởi thức xem đầu mục ở trên * trong đó dùng cách dịch danh và sắc’ ít theo nghĩa đen hơn. [6] Đọc là Kevaddha trong vài truyền thống thủ bản. [7] Của A-la-hán và Bích-chi-phật và những ai hướng đến các quả vị đó. [8] Xem * [9] Theo nghĩa kết thúc và không duyên cho sự khởi của các hiện tượng tương tự. [10] Nghĩa là, họ xem dòng của sát-na-tâm là một tâm thể bất biến, và thấy thứ này vẫn còn tồn tại trong Niết-bàn. [11] Mặc dù một số văn bản Đại thừa chấp nhận ý tưởng về ba thừa’, với các mục tiêu khác nhau, trong đó một số người có thú hướng và thực sự chứng đạt. [12] Cf. * [13] Tức là, với những ai vọng tưởng kiến chấp thì họ vẫn có thể tầm cầu giác ngộ. [14] Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự cùng nhau làm việc, cùng nhau hướng tới mục tiêu chung. [15] Xem cước chú * [16] Đó là Mười hai nhân duyên xem phần giới thiệu ở trước * [17] Đó là toàn bộ sự tồn tại có điều kiện xem Tam giới’ ở Bảng Chú Giải Thuật Ngữ và Tên Riêng. [18] Biết rằng mọi thứ là vô thường, khổ và vô ngã. [19] Bốn mươi bảy hoặc bốn mươi tám ở những bản dịch khác. [20] Lời Pháp Tạng Dharmākara, tiền thân Phật A-di-đà, xưng hô và phát nguyện trước đức Phật quá khứ hiệu Tự Tại Vương. [21] Như ở * các năng lực thần thông và minh dựa trên thiền định thường đạt được khi sắp giác ngộ. [22] Theo Đàm Loan 476-542, vị tổ đầu tiên của Tịnh Độ tông ở Trung Quốc, điều này có nghĩa là mười niệm chuyên chú không gián đoạn của A- di-đà và cũng là mười lần trì niệm liên tục tên của Ngài bằng cách niệm Namo’mitābhāya Buddhāya theo tiếng Sanskrit, Nan-mo A-mi-tuo Fo theo tiếng Trung Quốc, Namo Amida Butsu theo tiếng Nhật, Nam-mô A- di-đà Phật thể hiện sự kính trọng đến đức Phật A-di-đà. [23] Cố ý giết mẹ, cha, hoặc một vị A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, hoặc gậy nên sự chia rẽ trong Tăng đoàn. [24] Việc đánh số và thiết lập lời nguyện của Phật A-di-đà hơi khác một chút giữa bản tiếng Sanskrit và bản tiếng Trung. Như vậy, lời nguyện nổi tiếng được biết đến là Bản Nguyện Thứ Mười Tám của Phật A-di-đà ở Phật giáo Đông Á được gộp kèm nội dung của lời nguyện thứ hai mươi của văn bản tiếng Trung, được đánh số mười chín trong bản tiếng Phạn. [25] Tương đương với vô hý luận’ trong * [26] Tức là phát sanh tự nhiên vô công dụng hành không cần phải suy nghĩ gì. [27] Mười hai thị hiện’ của Phật 1 giáng sanh từ trời Tuṣita, 2 nhập thai, 3 đản sinh, 4 thành thiện xảo nhiều ngành, 5 hưởng thụ ngũ dục, 6 xuất gia, 7 sáu năm khổ hạnh, 8 tọa bồ-đề tòa, 9 hàng phục Ma quân, 10 thành bồ-đề, 11 sơ chuyển pháp, 12 Niết-bàn viên tịch. Continue Reading Sách Dẫn vào tuệ giác Phật, bản tiếng Anh Ảnh IEBH Common Buddhist TextGuidance and Insight from the Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya MCU. Chief Editor Venerable BrahmapunditEditor Peter HarveyTranslators Tamás Agócs, Peter Harvey, Dharmacārī Śraddhāpa, Premasiri, Somaratne, Venerable Thich Tue Sy Phật Điển Phổ ThôngDẫn vào Tuệ Giác Phật Chủ biên bản Việt ngữLÊ MẠNH THÁT – TUỆ SỸ Ban biên dịchThích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyềncủa Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya MCU, Thái-lan, 2018. _______________ TỰA Phước lạc thay chư Phật chánh đẳng giác xuất lạc thay Giáo pháp trung đạo dẫn đến lạc của chư Phật được tuyên lạc thay chúng đệ tử hiểu và hành như Chánh lạc thay chúng đệ tử hòa hiệp đồng tu.Dhammapada, kệ 194 Đại lễ Vesak, nhằm vào ngày trăng trong tháng Vesak, thông thường trong khoảng tháng Năm dương lịch, là khánh tiết ngày Đản sinh của Đức Phật, và cũng là ngày Thành đạo và nhập Niết-bàn. Tháng 12 năm 1999, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc công nhận ngày này là ngày lễ quốc tế, và tập sách này có thể được xem là triển khai từ sự công nhận này. Ý nghĩa quan trọng của ngày lễ như vậy đã xúc tiến thế giới Phật giáo đồng nhất tâm hướng về đại lễ Vesak, lần thứ nhất, năm 2000, được cử hành tại trụ sở của Liên Hợp Quốc ở New York và tại đây các đại lễ được cử hành thường niên, cho đến từ 2004 hầu hết được cử hành tại Bangkok, với hai năm trung đoạn được cử hành tại Việt Nam, và một năm tại Sri Lanka. Sự vân tập của các Phật tử khắp nơi trên thế giới đã dẫn đến việc thành lập Ủy Hội Quốc Tế Ngày Lễ Vesak the International Council for the Day of Vesak/ICDV, nay với tư cách tư vấn đặc biệt tại Ủy hội Kinh tế Xã hội Liên Hợp Quốc. Bản thân của ICDV đã hội tụ trên hai mươi cơ cấu Phật học cao cấp và hỗ trợ thành lập Hiệp hội Quốc tế các Đại học Phật giáo, the International Associtaion of Buddhist Universities, IABU. ICDV và IABU đã tạo cơ hội cho sự hợp tác thường xuyên trong các phương diện nghiên cứu và hành trì giữa ba hệ truyền thừa chính đang hiện hành của Phật giáo, Theravāda Thượng tọa bộ, Mahāyāna Đại thừa và Vajrayāna Kim cang thừa. Một trong những nỗ lực chung như vậy là một dự án được khởi động từ năm 2009 tại Đại học Hoàng gia Mahachulalongkorn-rajavidyalaya MCU, Thái-lan, với mục đích thống nhất những điểm tương đồng giữa các truyền thống Phật giáo khác nhau và đồng thời khánh chúc sự phong phú và đa dạng giữa các truyền thống này. Thành quả của sự nghiệp tập đại thành lịch sử này được công bố với tác phẩm Phật điển Phổ thông, Dẫn vào Tuệ giác của Phật. Được khích lệ bởi nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc và được gợi hứng bởi viễn kiến của các vị lãnh đạo Phật giáo Theravāda và Đại thừa, đề khởi một số điểm cơ bản thống nhất các tông phái Phật giáo tại Hội nghị lần thứ nhất của Hội Đồng Tăng-già Thế giới the World Buddhist Sangha Council, WBSSC tại Colombo năm 1967, một số khoảng 20 học giả Phật giáo được ICDV và IABU tuyển chọn từ ba truyền thống Phật giáo đã đảm trách dự án này. Trong suốt bảy năm, ủy ban biên soạn đã tổ chức không dưới 20 hội thảo chuyên đề tại MCU để phát huy nhận thức và triển khai phương án cụ thể. Khoảng 490 trích đoạn từ các kinh điển và các luận thư hậu kỳ cùng với các sớ thích của ba truyền thống Phật giáo được tuyển dịch trong tác phẩm này hợp đồng giới thiệu những gì Đức Phật đã thuyết. Bản văn trong tay bạn này đã trải qua hai vòng duyệt sách của các nhà lãnh đạo và các học giả Phật giáo thế giới, hoàn toàn tán đồng văn phong cũng như nội dung, hy vọng mang lại nhiều lợi ích cho người đọc. Dưới huệ cố của Hội Đồng Tăng-già Tối Cao Thái-lan và với sự hộ trì của Chính phủ Hoàng gia Thái-lan, MCU được đặc ân giao nhiệm vụ tán trợ ngay từ đầu. Tôi hy vọng mối cảm thông được phát huy trong quá trình tập đại thành của công trình quan trọng này sẽ giúp các truyền thống tôn giáo khác nhau, Phật giáo và phi Phật giáo, tăng cường hòa điệu và sống chung hòa bình như đã được đức Phật triển vọng. Hòa Thượng GS TS Phra BrahmapunditTrưởng Biên tập Viện Trưởng Viện Đại học MahachulalongkornrajavidyalayaChủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Đại Lễ Vesak Chủ tịch Hiệp hội Quốc tế các Viện Đại học Phật giáo BẢN VIỆT NGỮ BẢN ANH NGỮ Đọc tiếp 17/05/2023 Thích Tâm Nhãn Ví dụ về con kiến 25/04/2023 HT Thích Nguyên Siêu Giáo lý Duyên sinh dẫn dắt toàn bộ sinh hoạt con người 23/03/2023 Nguyên Giác Đức Phật dạy Pháp Môn Bất Nhị 16/03/2023 HT Thích Nguyên Siêu Nguyên tắc đoàn kết và Nguyên tắc nhiếp chúng 21/02/2023 Nguyên Giác chuyển ngữ OxfordMindfulness Thiền tập đơn giản 06/01/2023 Nguyên Giác Niêm Hoa Vi Tiếu mùa xuân trong Kinh Pali 04/01/2023 HT Thích Nguyên Siêu Thi kệ Thiền – Trên dòng sông lịch sử tu chứng 22/12/2022 HT Thích Nguyên Siêu Tứ diệu đế – Nguyên tắc cơ bản để giải quyết phiền não 05/12/2022 Thích Tâm Nhãn Duy thức trong cuộc sống 30/11/2022 HT Thích Đức Thắng Pháp Lục Hòa Nguyên tác tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt của CBT PTVN – “Phật điển phổ thông Dẫn vào tuệ giác Phật” được Việt dịch từ nguyên tác tiếng Anh là Common Buddhist Text Guidance And Insight From The Buddha CBT. Sách này là một dự án của Hội Đồng Vesak Quốc Tế, đặt tại Đại Học MCU của Thái Lan. Kết tập và soạn tập sách này là nhiều Biên tập viên và dịch giả Quốc tế. Trong đó, phía người Việt có Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Mạnh Thát, và Thượng toạ Nhật Từ. PTVN xin chia sẻ một vài thông tin về các bản dịch và dịch giả tiếng Việt của cuốn sách này từ Nguyễn Quốc Bình – một trong những dịch giả của cuốn sách. Sau khi bản tiếng Anh của Common Buddhist Text Guidance And Insight From The Buddha CBT được in tại Thái, một số ít sách đã được đưa về Việt Nam trước bởi những người có vai trò trong hội đồng. Vào khoảng cuối năm 2017, thầy Lê Mạnh Thát có đặt vấn đề phiên dịch quyển CBT sang tiếng Việt với thầy Tuệ Sỹ. Công việc này được thực hiện trực tiếp trước hết bởi Nguyễn Anh Tú và Nguyễn Quốc Bình. Tuy nhiên, do muốn đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành cho kịp lễ Vesak quốc tế năm 2018 sẽ diễn ra ở Thái, một số nhân sự đã được bổ sung vào, gồm có Thích Nữ Khánh Năng, cư sĩ Pháp Hiền, và Thích Thanh Hòa. Công việc được phân chia cụ thể như sau Nguyễn Anh Tú phụ trách việc tìm các bản Việt dịch tham khảo lẫn nguyên bản Pāli, Sanskrit hay Hán đã có của các đoạn trích trong phần đức Phật lịch sử L., Thượng Tọa Bộ Th. và Đại Thừa M., sau đó tiến hành nhuận văn, điều chỉnh thuật ngữ, câu cú toàn bộ 69 đoạn phần L. và 231 đoạn phần Th. theo bản tiếng Anh của CBT. Quá trình này có sự hỗ trợ của Nguyễn Quốc Bình. Nguyễn Quốc Bình thực hiện dịch mới toàn bộ 91 đoạn của phần Kim Cang Thừa V.. Với phần về Kim Cang Thừa này, tài liệu trong nước còn ít và cũng chưa quy chuẩn về thuật ngữ, nên việc phiên dịch còn phải tham khảo thêm các bản dịch tiếng Anh và Trung hiện có. Các thi kệ trong những đoạn trích cũng được dịch thành dạng kệ hoặc thơ. Phần M. được chia cho ba nhân sự còn lại. Cư sĩ Pháp Hiền phụ trách 57 đoạn gồm Chương 3, Chương 4, Chương 5, và Chương 6. Thích Nữ Khánh Năng phụ trách 56 đoạn gồm Chương 7, Chương 8 , và Chương 10. Thích Thanh Hòa phụ trách 22 đoạn gồm Chương 2, Chương 11, và M. 165-168 Chương 12. Vì hoàn thành trước, nên Nguyễn Quốc Bình được bổ sung để thực hiện thêm 22 đoạn chưa xong gồm Chương 9, và Chương 10 cho dự án kịp tiến độ. Phần lời dẫn, lời tựa; các phần dẫn luận tổng quan, cuộc đời đức Phật lịch sử, Tăng-già, Thượng Tọa Bộ, Kim Cang Thừa; các phụ lục về các liên kết và tài liệu tham khảo cũng được dịch bổ sung bởi Nguyễn Quốc Bình. Phần bảng chú giải thuật ngữ và tên riêng được dịch bởi Thích Nữ Khánh Năng. Phần dẫn luận về Đại Thừa được viết bởi thầy Tuệ Sỹ và hiệu đính tiếng Anh bởi GS. Harvey cũng đã được dịch ra tiếng Việt trước đó bởi Thích Hạnh Viên khi thực hiện Hương Tích Phật học luận tập và đăng trên trang web Sau đó, công việc gom bài và tiến hành hiệu đính được thực hiện chung bởi Nguyễn Anh Tú, Nguyễn Quốc Bình và Thích Nữ Khánh Năng trong suốt nhiều ngày liên tục. Các việc cần làm gồm có dịch bổ sung các đoạn trích còn thiếu Chương 6 cũng như các lời dẫn của các đoạn trích khác còn thiếu; kiểm tra các lỗi chính tả; định dạng lại văn bản; thống nhất thuật ngữ và văn phong sử dụng trong cả cuốn sách. Một số đoạn trích dịch sai lệch về ý nghĩa, hoặc cấu trúc không khớp phần trích trong bản tiếng Anh, hoặc tự ý lược bớt nhiều phần, hoặc không dịch mà viết ý của mình vào, hoặc copy lại nguyên văn các bản Việt dịch khác; các đoạn như vậy đều được dịch mới lại. Quá trình này cứ luân phiên, người đọc, người dò, các đoạn bất thường đều tra lại nguyên bản cổ ngữ cùng các bản dịch đã có ở mọi ngôn ngữ tìm được trước đó. Thầy Tuệ Sỹ cũng hỗ trợ giải đáp các đoạn khó trong quá trình này. Cho đến gần lễ Vesak năm 2018, công trình phiên dịch CBT mới tạm định hình. Một số bản giấy được in nhanh dưới dạng lưu hành nội bộ và mang sang Thái Lan trình cho ICDV. Phiên bản này còn ghi rõ từng người phụ trách phiên dịch ở đầu lẫn từng đoạn trích theo đúng quy ước trong bản tiếng Anh. Tiếp theo, để chuẩn bị cho việc phát hành chính thức tại Việt Nam, thầy Tuệ Sỹ cũng tranh thủ thời gian hiệu đính thêm một lượt nữa từ đầu đến cuối các vấn đề như đã nêu. Văn phong được điều chỉnh cho phù hợp với đại chúng nhất, đối sánh giữa nguyên bản và bản Anh. Nhiều đoạn dịch thơ được chuyển thành văn xuôi cho dễ hiểu. Công việc phát hành CBT tại Việt Nam được giao cho thư quán Hương Tích toàn quyền phụ trách. Bản in đầu tiên tại Việt Nam vào tháng 4 năm 2019, ngoài những chỉnh lý như đã nêu, còn có những khác biệt bất thường về mặt tác quyền dịch phẩm so với bản in nộp cho hội đồng Vesak năm 2018. Tên tất cả nhân sự thực hiện dịch Việt ở mỗi đoạn đều bị xóa đi; danh mục công việc phụ trách của từng người bị xóa; lời tri ân các bản kinh tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu, NS. Thích Nữ Trí Hải, HT. Thích Trí Quang, Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh… làm tham khảo khi dịch thuật cũng bị xóa. Đặc biệt, Nguyễn Anh Tú bị bỏ tên ra khỏi danh sách; trong khi Thích Hạnh Viên, người phụ trách Hương Tích, thị giả của thầy Tuệ Sỹ, người chỉ dịch một bài trong sách, không phải là người trực tiếp biên tập, cũng không phải là người có hạ lạp cao nhất, thì tự để tên ở đầu danh sách dịch giả; đồng thời thứ tự các dịch giả khác cũng bị thay đổi. Ngoài ra, Lê Mạnh Thát không đóng góp chữ nào trong quá trình phiên dịch nhưng cũng nghiễm nhiên đứng đầu làm chủ biên bản dịch. Không rõ là công trình học thuật cũng cần có hội đồng chứng minh, hay dự án tâm linh cũng cần mướn bằng tiến sĩ. Hình ảnh danh sách dịch giả bản dịch Việt hiện còn đang đăng trên – Ảnh chụp màn hình ngày 30/5/2021 Ở đây có điều bất thường là danh sách “Biên tập viên và dịch giả tiếng Việt” trên trang “sachhuongtich” không có tên Lê Mạnh Thát, bất đồng với bìa sách của bản dịch Việt “Chủ biên bản dịch Việt LÊ MẠNH THÁT – TUỆ SỸ” PTVN Lẽ thường, ngay cả đối với người chỉ phụ giúp giấy mực, hay giúp tháo gỡ một ý tưởng, hay gợi ý một từ ngữ nào đó, thì bất luận họ là ai, hay cho dù thành quả của mình có vượt quá họ, người viết cũng cần phải có đôi dòng cảm ơn. Về mặt đời, đó là sự tôn trọng tối thiểu vì đã tiêu tốn thời gian, công sức, và tài nguyên của người khác; cho dù không có công lao cũng có khổ lao, thậm chí là “học từ sai lầm của người khác”, trước khi nói đến việc biết mình “đứng trên vai người khổng lồ”, hay hiểu lẽ “bán tự vi sư”. Về mặt đạo, việc tri ân đến từng hạt cơm, giọt nước của tín thí cũng là điều phải làm. Tri ân, theo nghĩa rộng đó, không chỉ là cơ chế để phòng tránh ngã mạn, tự coi mình hơn hẳn thiên hạ; mà còn là cơ chế để giữ cho xã hội vận hành dựa trên những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Đó không chỉ là lịch sự, đó còn đạo đức, thậm chí còn là nền móng của xã hội. Nếu có người vì địa vị xã hội, hay quan hệ cá nhân mà mập mờ đánh lận con đen, hay vì ăn theo danh vị của ai đó, mà lấy công người khác làm công người này, thì đó là vi phạm liêm chính học thuật, là trá ngụy, là vọng ngữ, có tội với lòng tin của tín thí nuôi sống mình, là triệt đường phát triển và làm mục nát gốc rễ Phật giáo trong quần chúng vậy. Nếu chuyện đứng tên hay mượn danh được xem là chuyện thường tình trong khoa học đến đời sống, từ thế tục đến tâm linh, thì ấy là không có tàm quý, và đã đến lúc chúng ta cần phải tự nhìn lại chính mình như một cách giải bày cho hậu thế. Tuy mỗi thế hệ có một hệ giá trị cho mình, nhưng nếu ngay cả hệ giá trị do mình đề cao mà mình cũng cố tình sai phạm, thì cũng đáng cho đời sau khinh miệt. Toàn bộ quá trình thực hiện phiên dịch đều được theo dõi bởi thầy Tuệ Sỹ, nhưng thầy không hề lên tiếng gì về việc này dù CBT sau đó được Hương Tích tái bản lại nhiều lần theo cách kể của nó. Điều này chứng tỏ rằng hoặc là thầy Tuệ Sỹ bao che; hoặc là thầy đã không thể kiểm soát được đại cục; hoặc còn một khả năng nữa mà chúng tôi không muốn nghĩ tới. Những điều này trở nên thật sự quan trọng, không chỉ cho cá nhân mà còn đối với xã hội, khi thầy Tuệ Sỹ trở thành người danh chính ngôn thuận đứng đầu “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất” sau khi thầy Thích Quảng Độ mất. Sự việc Thích Phước Nguyên Nguyễn Thành Long trước đó suốt một thời gian dài đi khắp nơi mạo xưng truyền nhân của thầy Tuệ Sỹ, đạo văn làm sách, vào tận Học viện Phật giáo để giảng dạy cho Tăng Ni sinh, thậm chí đứng trước Hội nghị Vesak Quốc tế mà khua môi múa mép, mà thầy Tuệ Sỹ không lên tiếng, Học viện cũng không chịu nhận ra,¹ là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho chúng ta về những nguy cơ khôn lường của sự lũng đoạn từ trong nội bộ Phật giáo, cũng như những nghi ngại hợp lý về năng lực quản trị của những người có liên quan. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, sự việc hiện tại cũng giúp giải thích nghi vấn rằng vì sao một thiên tài như thầy Tuệ Sỹ mà trước nay lại không có lấy một đệ tử thành tài, để rồi khi Thành Long mạo nhận, mới dễ dàng qua mắt được nhiều người. Trái với ý nguyện của công trình CBT khi khởi sự là phân phát miễn phí, đặc biệt là cho các hệ thống khách sạn, việc phát hành bản dịch này hướng đến các tín đồ và tự viện nhiều hơn là hệ thống khách sạn Việt Nam. Hương Tích thông báo trên facebook của mình rằng sách này chỉ được ấn tống cho các chùa và tự viện theo một danh sách không công bố. Trong khi đó, cũng theo thông báo này, các Phật tử muốn thỉnh quyển sách có in chữ ấn tống trên bìa này thì cần phải trả 70,000 VND phí in ấn cho mỗi cuốn và không được bán lại. Để lãng tránh việc không công bố file sách, Hương Tích lấy lý do phải xin phép các tác giả, tuy nhiên, lại không một lời hỏi ý các dịch giả. Ngoài ra, Hương Tích cũng can thiệp vào việc thương mại hóa sách này của các tổ chức khác. Phân phối bản dịch CBT tại Việt Nam. a Thông báo thỉnh sách tại Hương Tích, b, c Hương Tích can thiệp việc mua sách từ nơi khác. Trong khi việc phát hành sách giấy bản tiếng Việt được độc quyền bởi Hương Tích, nhiều số tổ chức khác đã thực hiện các phiên bản sách nói khác nhau và phổ biến qua internet. Các bản sách nói này được thực hiện một cách tự phát, không có sự hỗ trợ từ tổ chức biên soạn và phân phối chính thức của CBT. Điều này, một mặt thể hiện sự tiếp nhận tích cực của cộng đồng dưới góc độ tôn giáo, đưa ra cách giải quyết cho hạn chế về mặt phân phối; mặt khác lại là một cách giải quyết không triệt để vì hình thức sách nói không hoàn toàn thích hợp với chức năng nghiên cứu đối sánh của CBT. Ngày 3 tháng 2 năm 2021, trang Cổng thông tin Phật giáo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đăng bài viết Đọc “Phật điển phổ thông Dẫn vào tuệ giác Phật” ² của Nguyên Giác. Bài điểm sách đầu tiên bằng tiếng Việt này đã phân tích một vài đoạn trích lục trong sách sau khi dành hết lời khen ngợi và quảng bá cho quyển sách. Khi viết bài này, dù tác giả tự thừa nhận vẫn chưa đọc xong quyển sách, nhưng bài điểm sách vẫn thể hiện rõ được tâm thái tiếp nhận của cộng đồng. Theo đó, trong ba chức năng đã nêu của CBT, chức năng thánh thư vẫn là nổi bật nhất. Ngày 9 tháng 4 năm 2021, dịch giả Nguyễn Anh Tú chính thức lên tiếng về việc bị xóa tên và công bố file mềm của CBT tiếng Việt. Ban đầu, do được thầy Tuệ Sỹ nhờ cậy, chúng tôi mới dịch cuốn CBT. Chúng tôi không có nhu cầu về danh tiếng, càng chẳng có hứng thú được nêu danh trong quyển nguyên tác đầy khiếm khuyết và mượn danh tôn giáo để làm chính trị này, thế nên đối với mấy trò tranh giành bấy lâu nay không thèm lên tiếng. Vậy mà có kẻ nhàn rỗi sanh tâm đố kị, e người làm được việc đe dọa sự thừa tự của mình, nên đặt điều dèm pha, nhân việc chúng tôi làm bộ Chân Nguyên Tuệ Đăng cho thầy Lê Mạnh Thát mà đơm đặt thêu dệt. Lại có người đức cao vọng trọng mà lại nghe lời một phía, tin tưởng người nhà mà bất phân thị phi, không chủ trì được công đạo mà cưỡng cầu sự hòa hợp, không dẹp yên gia sự mà mộng tưởng cao xa, không đoái hoài sự thật mà vọng cầu chân lý, nên để lại sự thất vọng không phải ở cá nhân mà là ở lý tưởng mà cá nhân đó theo đuổi và làm đại diện. Thất chí, Tú đã bỏ ngang mọi công việc sách vở mà về quê làm ruộng. Ấy thế mà có kẻ trong lòng tự thẹn, muốn cả vú lấp miệng em, tiên hạ thủ vi cường, vẫn truy cùng giết tận, tiếp tục gieo tiếng ác. Lần này Tú lên tiếng cũng là con giun xéo lắm cũng oằn rồi vậy. Tuy nhiên, tiếng nói của kẻ cô thế lại bị đổi trắng thay đen thành lời vu khống khi mà Tú, người bị xóa đi tên tuổi, không thể đưa ra được bằng chứng cho điều mình nói. Trong khi đó, tôi cũng là người trong cuộc của tất cả các sự việc vừa nêu, vẫn giữ lại đầy đủ các tài liệu làm việc; tên tôi lại vẫn còn trong danh sách dịch giả của CBT, cũng như lời đầu cho bộ Hương Tích Phật học luận tập, nên lời nói của tôi hoàn toàn là có đủ thẩm quyền làm chứng trong việc này. Vì vậy, cho dù là trách nhiệm với cá nhân hay trách nhiệm với sự thật, tôi cũng buộc lòng phải lên tiếng lúc này. Tú là nhân tài hiếm có trong thế hệ người Việt của mình, tuy nhiên, tính tình quá bộc trực, nhiệt tình, dễ sai bảo, làm được nhiều việc lại không nhận công, chịu thiệt cũng không nói, thế nên người ngoài không biết đến, người trong cuộc lại coi thường, bọn dã tâm tính đường lợi dụng, lũ tiểu nhân nuôi tâm đố kị. Đã làm không công lại bị vu vạ, im lặng mấy năm, nhưng giờ lại lên tiếng, đó cũng là vì bị áp bức quá đáng lắm rồi vậy. Ngày 14 tháng 4 năm 2021, Hương Tích công bố bản mềm trên nền tảng của mình. Hiện nay, việc thỉnh sách giấy CBT ở Hương Tích cũng đã được thông báo là miễn phí. Ngày 8 tháng 5 năm 2021, giữa scandal về Võ Hoàng Yên, Thích Nhật Từ công bố một bản dịch thứ hai của CBT trên trang web của mình. Bản dịch này lấy tên tiếng Việt là Phật điển thông dụng Lối vào tuệ giác Phật. Lời giới thiệu của dịch phẩm ghi rõ “Ấn bản tiếng Việt đầu tiên do HT. Thích Tuệ Sỹ và GS. Lê Mạnh Thát làm chủ biên bản dịch, xuất bản lần đầu tại Việt Nam vào mùa Phật đản năm 2019. Vì rất muốn phổ biến rộng rãi ấn bản tiếng Việt đến cộng đồng Phật giáo Việt Nam, nhưng do không xin được bản dịch tiếng Việt đã xuất bản trước, tôi quyết định tự mình dịch tác phẩm này. … Mục đích của tôi là cúng dường dịch phẩm này lên đức Phật nhân mùa Phật đản năm 2021, đồng thời góp phần kỷ niệm 40 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam bằng cách ấn tống rộng rãi tác phẩm này đến cộng đồng Phật giáo Việt Nam.”³ “Phật điển thông dụng Lối vào tuệ giác Phật” bản dịch chủ biên bởi Nhật Từ Điều này một mặt chứng tỏ sự độc quyền và yếu kém về năng lực phân phối của Hương Tích. Mặt khác, nó cũng nói lên một sự thật là nhóm của Thích Tuệ Sỹ và nhóm của Thích Nhật Từ không phải là đồng thanh đồng khí, đồng chí đồng tình; việc hai vị cùng đứng tên trong bản gốc của CBT chỉ là hoàn cảnh bắt Tuy nhiên, Thích Nhật Từ không đích thân thực hiện bản dịch thứ hai này mà giao nó lại cho các thành viên của Trung tâm nghiên cứu và phiên dịch Phật học. Điểm đáng quý ở đây là sách tôn trọng bản quyền dịch phẩm trước, nói rõ lý do phải dịch lại, đồng thời khi nêu chi tiết nhân sự phụ trách từng phần. “Do bận nhiều Phật sự nên tôi không thể thực hiện ý định trong năm 2018-2020. Trước tết 2021, tôi mời 8 thành viên của Trung tâm nghiên cứu và phiên dịch Phật học do tôi làm Giám đốc thuộc Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam cùng tham gia phiên dịch bản tiếng Việt thứ hai này. Có thêm một bản dịch tiếng Việt đối với sách này chắc chắn sẽ góp phần làm phong phú giá trị của tác phẩm, vốn là sự đóng góp chất xám tập thể của gần 20 người đại diện các trường phái Phật giáo, trực tiếp tham gia công trình biên soạn này. Ngoài việc phân công, đôn đốc các dịch giả, tôi hiệu đính bản dịch, bổ sung dấu đối với các thuật ngữ Pāli, Sanskrit, thống nhất hóa một cách tương đối các thuật ngữ trong sách, Việt hóa tối đa các thuật ngữ Phật học, bổ sung bảng viết tắt… để độc giả Việt Nam dễ hiểu và trải nghiệm lời Phật trong cuộc sống.”⁵ Bản Phật điển thông dụng Lối vào tuệ giác Phật chỉ được hoàn thành gấp rút trong vòng 1 tháng rưỡi. “Tôi tán dương quý Thầy, Sư cô và các Phật tử thuộc Trung tâm nghiên cứu và phiên dịch Phật học đã hoan hỷ đồng hành với tôi trong việc phiên dịch hoàn thành tác phẩm này trong 45 ngày. Tôi tán dương các Phật tử chùa Giác Ngộ và Ban lãnh đạo Quỹ Đạo Phật Ngày Nay đã phát tâm ấn tống hàng chục ngàn bản của tác phẩm này.”⁶ Do đó, bản dịch này còn mắc nhiều lỗi. Các thuật ngữ không thống nhất;⁷ không thống nhất quy ước phiên âm hay dịch tên riêng, quy ước ghi gạch nối; format theo kiểu replace all;⁸ đánh mã lẫn lộn;⁹ lỗi chính tả, nhất là ở thuật ngữ Pāli/Sanskrit, còn nhiều;¹⁰ không hiểu hết bản dịch thứ nhất;¹¹ sửa từ đúng thành sai;¹² thêm footnote tủn mủn, không phân biệt rõ ràng với các footnote của nguyên tác;¹³ không hiểu quy tắc trích dẫn khoa học các kinh/tác phẩm trong ghi chú nguồn dẫn;¹⁴ bám vào bản tiếng Anh thái quá;¹⁵ cố ý làm cho bình dân học vụ và khác đi so với bản dịch Tóm lại, trong khi đó Phật điển phổ thông là dịch lại bản tiếng Anh, lấy cơ sở từ văn bản cổ ngữ gốc, dựa trên sự đối chiếu với nhiều ngôn ngữ khác, thì bản Phật điển thông dụng, ngay từ tựa đề, đã cho thấy đây chỉ là sự xào nấu lại từ Phật điển phổ thông một cách vụng về dựa trên sự đối chiếu với bản CBT tiếng Anh. Với cách làm này thì chắc Tam tạng Thánh điển Phật giáo cũng sẽ nhanh chóng giải quyết xong các vụ không xin được bản quyền dịch phẩm. Kì thực, trong vòng 45 ngày mà 9 người dịch lại một cuốn sách khoảng 8-900 trang khổ nhỏ được như vậy là đã bỏ công nhiều rồi, không thể đòi hỏi thêm được. Vấn đề là CBT xong từ 2015, Phật điển phổ thông xong từ 2018, tính luôn cả thời gian kì kèo bản quyền với Hương Tích thì cũng không hiểu được vì sao phải đợi quá lâu rồi lại làm gấp rút đến vậy. Ngoài ra, Phật điển phổ thông đã trình cho ICDV và Hương Tích lấy lý do xin phép ICDV để biện hộ cho việc bê trễ của mình, nên không rõ Phật điển thông dụng có trình và được phép ICDV phổ biến đồng thời thâu nhiếp vào bộ sách của mình chưa xem hình bìa sách. Cũng không rõ bản dịch mới này rồi có đặt trong khách sạn theo yên cầu ban đầu của CBT không. trích “Common Buddhist Text – Một tham vọng về quyển kinh thánh Phật giáo”; tiêu đề được đặt mới ————— Ghi chú ¹ Đỗ Quốc Bảo, Hiện tượng Phước Nguyên PN và những bộ kinh được “tân dịch” từ Phạn ngữ, April 17, 2020, Tư Tưởng, Accessed April 23, 2021. ² Nguyên Giác, Đọc “Phật điển phổ thông Dẫn vào tuệ giác Phật”, Accessed March 31, 2021. ³ Peter Harvey chủ biên, Phật điển thông dụng Lối vào tuệ giác Phật, Thích Nhật Từ chủ biên bản dịch, tr. xxvi Viện nghiên cứu Phật học, nxb. Tôn Giáo, 2021. Accessed May 8th, 2021. ⁴ Xem phần ⁵ Như Ibid tr. xxvi-ii. ⁶ Như Ibid tr. xxix. ⁷ Như Kim cang thừa và Kim cương thừa. ⁸ Ibid tr. Xix. ⁹ Ibid ¹⁰ Như Ibid tr. 22. ¹¹ Chẳng hạn, Phật điển phổ thông trang 253 có dùng chữ “khứng” ở bài Th. 19; Phật điển thông dụng ghi chú ở footnote trang 270 để so sánh và tô đỏ chữ này. Khứng 肯[khẳng, khừng] nghĩa là ưng thuận. ¹² Như mật tục và mật tông. ¹³ Như Ibid tr. 537, 757, 766. ¹⁴ Ghi chú cuối tất cả các đoạn kinh. ¹⁵ Như Ibid tr. 268, 269, 270, 271, 272, 275, 276, 278, 283. Chẳng hạn, Sheldon B. Kopp có một quyển sách tên là If you meet the Buddha on the road, kill him!. Ai có kiến thức về thiền tông sẽ biết đây là điển “Phùng Phật sát Phật”, nếu muốn bình dân thì dịch là Gặp Phật giết Phật. Ai chỉ biết bám sát bản tiếng Anh sẽ dịch là Nếu bạn gặp đức Phật trên đường, hãy giết ngài ấy! rồi cho đây là chính xác và dễ hiểu. Các ví dụ tương tự có thể được tìm thấy khi so sánh bản tiếng Anh quyển Thiền luận của Suzuki với bản dịch của Trúc Thiên và Tuệ Sỹ. ¹⁶ Như Ibid tr. 444, 512, 757, 766, 781, 787. Nguyễn Quốc Bình

dẫn vào tuệ giác phật