du lịch biển đảo vùng duyên hải nam trung bộ

Chọn B Duyên hải Nam Trung Bộ là vùng có nhiều điều kiện để phát triển du lịch biển -đảo do có nhiều bãi biển đẹp, rộng, cát trắng; các đảo ven bờ,…Vùng đã hình thành được các trung tâm du lịch có ý nghĩa quốc gia (Đà Nẵng) và vùng (Nha Trang). Tối 6/10 tại Quảng trường Võ Nguyên Giáp, Lễ khai mạc Ngày hội văn hoá dân tộc Dao toàn quốc lần thứ II năm 2022 đã được tổ chức, đây là sự kiện do Bộ Văn hoá , Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức. Dự lễ khai mạc có đồng chí Đỗ 6638. Tuyến điểm du lịch duyên hải nam trung bộ ( tiểu vùng DL NTB) bao gồm 5 tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định. 1.Tuyến điêm du lịch TP.HCM- Phan Thiết. b.Các điểm tham quan. Khu du lịch núi Tà Cú & chùa Linh Sơn Trường Thọ. Hải Đăng Khe Già. Nói đến du lịch biển đảo không thể không nhắc đến Cù lao Chàm (Quảng Nam), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Quy Nhơn (Bình Định), Ninh Chữ - Cà Ná (Ninh Thuận), Mũi Né (Bình Thuận). Bên cạnh đó, hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng nằm trên địa phận các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ. Mùa hè năm nay, các miền duyên hải phía nam như Côte d'Azur hay Pyrénées-Atlantique, các vùng biển phía tây bắc như Bretagne, Normandie đều rất đông khách. Xác lập điểm đến hàng đầu châu Á Không quá đông đúc, náo nhiệt như nhiều điểm đến truyền thống, Quy Nhơn - đô thị biển duyên hải Nam Trung Bộ mang nét đẹp cuốn hút của biển cả, cùng di sản văn hóa phong phú và đặc trưng ẩm thực độc đáo. Vaytiennhanh Home Credit. Việt Nam với hơn bờ biển có vị trí đặc biệt thuận lợi để phát triển nhiều loại hình, sản phẩm du lịch biển. Vùng duyên hải Nam Trung bộ Việt Nam được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều bờ biển, hòn đảo đẹp nổi tiếng trong nước và quốc tế cùng với những giá trị đa dạng về cảnh quan, sinh thái di tích lịch sử, văn hóa... Vì thế, có thể nói rằng, du lịch biển đảo chính là thế mạnh của vùng duyên hải Nam Trung bộ nói riêng và Việt Nam nói chung. Bãi Môn - Mũi Điện Phú Yên Khai thác du lịch biển đảo vùng Nam Trung bộ Vùng duyên hải Nam Trung bộ trải dài khoảng 800km, gồm 8 tỉnh là Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Các tỉnh trong vùng đều có biển tạo nên tiềm năng to lớn để phát triển du lịch biển đảo với các loại hình du lịch như nghỉ dưỡng biển, thể thao trên biển, trên cát cũng như du lịch sinh thái biển, lặn biển... Sự kết hợp hài hòa giữa biển và núi đã tạo cho vùng nhiều kỳ quan, thắng cảnh hùng vĩ, những bờ biển đẹp như Quy Nhơn Bình Định, Ninh Chữ Ninh Thuận, Sa Huỳnh Quảng Ngãi và nhiều suối nước nóng, suối bùn khoáng. Ngoài ra, vùng còn có nhiều đảo đá lớn, nhỏ như bán đảo Sơn Trà Đà Nẵng được xếp vào danh sách rừng cấm với cảnh đẹp và thảm động thực vật phong phú, cù lao Chàm Quảng Nam khu vực dự trữ tự nhiên có diện tích và nhiều danh thắng khác như Hòn Ông Căn Bình Định, Hòn Nội Khánh Hòa, Phú Quý Bình Thuận... Ngoài ra, có hai quần đảo khá nổi tiếng là quần đảo Trường Sa Khánh Hòa và Hoàng Sa Đà Nẵng. Những vịnh đẹp của vùng là Dung Quất Quảng Ngãi, Đại Lãnh Vân Phong Khánh Hòa. Ngoài biển, đảo thì những danh thắng, di tích cũng là điểm nổi bật của vùng với những giá trị về mặt văn hóa, lịch sử, tâm linh và nghỉ dưỡng. Hiện nay, duyên hải Nam Trung bộ có khoảng 362 di tích được xếp hạng, chiếm 14,4% số di tích được xếp hạng trong cả nước. Bên cạnh vẻ đẹp của tự nhiên và những di tích thì hệ sinh thái với những loài động thực vật đa dạng cũng tạo nên sức hút du lịch cho vùng. Trước tiên phải kể đến là nguồn hải sản phong phú. Vùng chiếm gần 20% sản lượng đánh bắt của cả nước, với những loài hải sản đặc sản như tôm, tôm hùm, cá mú, ngọc trai… Bên cạnh đó, còn có nhiều loài động vật với chủng loại đa dạng như thú có 7 bộ, 19 họ và trên 50 loài với các loài đại diện như hổ, báo, gấu, bò rừng, sơn dương, sóc chân vàng, voọc ngũ sắc, khỉ đuôi dài, trăn gấm…; chim có 13 bộ và trên 150 loài, các loài đại diện gồm có công, đại bàng đất, gà lôi, bìm bịp, đặc biệt chim yến cho sản phẩm có giá trị cao, nổi tiếng trong nước và quốc tế. Vùng duyên hải Nam Trung bộ thu hút khách đến tham quan quanh năm kể cả du khách trong nước và quốc tế. Du khách đến vào tháng 2, tháng 5 và tháng 12 chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt mùa hè tháng 7, 8 là mùa cao điểm về du lịch biển đảo của vùng. Khách đến đây theo nhiều loại hình du lịch đa dạng như tham quan thắng cảnh thiên nhiên; nghỉ dưỡng biển, tham quan di tích văn hóa - lịch sử; du lịch thương mại và tham dự hội thảo, hội nghị... Khách du lịch đến tham quan phân bố không đồng đều theo khu vực, tập trung tại các khu vực Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận với các loại hình như du lịch sinh thái biển, nghỉ dưỡng biển, đảo. Nhu cầu của du khách ngày càng đa dạng, các dịch vụ vui chơi giải trí gắn với du lịch biển đang được ưa chuộng nhiều hơn trước. Biển Đà Nẵng Những hạn chế trong phát triển du lịch biển đảo Nguồn tài nguyên du lịch các tỉnh nhau lại thiếu sự liên kết phối hợp đồng bộ giữa các địa phương dẫn đến tình trạng trùng lặp về sản phẩm du lịch trong vùng, chưa tạo được nét độc đáo riêng để thu hút khách. Loại hình và sản phẩm du lịch chưa phong phú, đa phần vẫn là những tour du lịch tắm biển, tham quan cảnh đẹp đơn thuần, du lịch tâm linh lễ chùa...; những món hải sản với cách chế biến đơn giản mà cả 8 tỉnh đều có. Dịch vụ vui chơi giải trí còn thiếu và yếu. Một điều đáng quan tâm khác là sự phát triển du lịch chưa đồng đều giữa các tỉnh vùng duyên hải Nam Trung bộ. Các điểm du lịch tại Đà Nẵng, Hội An, Mỹ Sơn Quảng Nam, Nha Trang Khánh Hòa, Bình Thuận đã được khai thác từ sớm, cơ sở hạ tầng phát triển mạnh, được quan tâm đầu tư đúng mức tạo nên thương hiệu du lịch uy tín, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế. Trong khi đó, dù có tiềm năng lớn nhưng khai thác du lịch tại Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận và nhất là Quảng Ngãi vẫn còn hạn chế, chưa có quy hoạch cụ thể, cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, hệ thống cơ sở lưu trú thiếu, nguồn nhân lực chưa đủ đáp ứng nhu cầu và chất lượng dịch vụ chưa cao. Phát triển du lịch biển đảo hiện đang đứng trước nguy cơ suy giảm tài nguyên và sự xuống cấp của môi trường ở vùng ven biển do việc bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên chưa hợp lý cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của các đô thị, khu dân cư, công nghiệp vùng ven biển và công tác quản lý còn chưa tốt. Bên cạnh đó, sự quá tải lượng khách du lịch trong mùa cao điểm ở một số nơi làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái tự nhiên điển hình là hệ sinh thái san hô có thể suy giảm trong mùa cao điểm. Một hạn chế chung nữa mà hầu hết các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ mắc phải đó là chưa đẩy mạnh công tác quảng bá hình ảnh, xây dựng thương hiệu dựa trên thế mạnh riêng của từng tỉnh. Giải pháp phát triển du lịch biển đảo vùng duyên hải Nam Trung bộ Để tạo nên các sản phẩm du lịch đặc sắc dựa trên nguồn tài nguyên sẵn có nhằm phát triển hiệu quả và bền vững du lịch biển đảo vùng duyên hải Nam Trung bộ, cần có sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan, ban, ngành, địa phương và cả những người kinh doanh du lịch trong việc thực hiện các giải pháp sau đây Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các loại hình du lịch biển đảo như nghỉ dưỡng biển, vui chơi giải trí, tham quan, thể thao mạo hiểm, khám phá đáy biển và các đảo ven bờ, du lịch tàu biển... kết hợp với phát triển các loại hình du lịch bổ trợ như du lịch sinh thái núi nghỉ mát, thể thao leo núi.., du lịch văn hóa tham quan lễ hội, các di tích lịch sử văn hóa…, du lịch MICE… Mỗi tỉnh không chỉ có kế hoạch xây dựng, phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo dựa trên thế mạnh của riêng mình mà cần phải liên kết chặt chẽ với địa phương khác để tạo nên những sản phẩm du lịch liên kết vùng và tránh sự trùng lắp. Thứ hai, đầu tư xây dựng mới, nâng cấp hệ thống các cơ sở lưu trú, kết cấu hạ tầng du lịch, phát triển các công trình vui chơi giải trí, tạo ra những loại hình vui chơi giải trí độc đáo, cao cấp và hiện đại như cáp treo, sân golf… cũng như các loại hình vui chơi giải trí mạo hiểm gắn với tài nguyên biển và núi. Thứ ba, đầu tư bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch như sửa chữa, nâng cấp hệ thống tài nguyên du lịch đặc biệt đối với các di tích văn hóa - lịch sử, các lễ hội truyền thống phục vụ du lịch, cải tạo môi trường tự nhiên khu vực hoạt động du lịch. Khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đồng thời là biện pháp bảo vệ môi trường trên cơ sở phát triển bền vững theo vùng, lãnh thổ. Có hình thức thưởng, phạt nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm quy tắc bảo vệ môi trường. Thứ tư, chính quyền địa phương kết hợp cùng công ty du lịch trong việc xúc tiến quảng bá du lịch biển đảo của vùng một cách thường xuyên và có hiệu quả bằng nhiều hình thức và phương tiện thông tin TV, báo, đài, website, sách, tờ gấp, bản đồ, CD, lễ hội, hội thảo, hội chợ, triển lãm... cả trong nước và nước ngoài nhằm thu hút du khách. Thứ năm, đẩy mạnh đào tạo và bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực như đào tạo trình độ đại học và tăng cường khả năng nghiên cứu về du lịch; đào tạo trình độ trung học và học nghề về du lịch; tăng cường năng lực cho cán bộ quản lý du lịch ở các cấp... Như vậy, việc phát triển du lịch biển đảo vùng duyên hải Nam Trung bộ không chỉ góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch địa phương phát triển mà còn thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác; tạo thêm nhiều việc làm góp phần tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế./. Ths. Nguyễn Quốc Nghi Huỳnh Thị Thúy Loan *Trường Đại học Cần Thơ Vị trí địa lí và giới hạn lãnh thổ[edit] - Duyên hải Nam Trung Bộ là dải đất hẹp ngang hình cong, hướng ra biển, trải dài gần 6 vĩ độ từ 10033’B đến 160B kéo dài từ Đà Nẵng đến Bình Thuận. Bao gồm 8 tỉnh và thành phố. - Phía Tây là Tây Nguyên, Lào; phía Đông là vùng biển rộng với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; phía Bắc giáp Bắc Trung Bộ, phía Nam giáp Đông Nam Bộ. Với vị trí và hình dáng như trên duyên hải Nam Trung Bộ có ý nghĩa về chiến lược giao lưu kinh tế và an ninh quốc phòng vùng được coi là cửa ngõ của Tây Nguyên, là cầu nối của Nam Bộ với các tỉnh phía Bắc, quan trọng hơn cả vùng được coi là cơ sở hậu cần để khai thác kinh tế biển đảo và bảo vệ chủ quyền biển Đông. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên[edit] Địa hình -Có sự phân hoá từ Tây sang Đông núi, gò đồi ở phía Tây, hướng địa hình cong ra biển, núi dốc đứng về phía Đông có những dải núi chạy sát ra biển chia cắt dải đồng bằng ven biển. Bờ biển dốc khúc khuỷu tạo nên nhiều vũng vịnh nước sâu, nhiều bán đảo, quần đảo và đảo ven bờ Khí hậu -Trên nền chung của cả nước là tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa, khí hậu vùng này còn mang sắc thái á xích đạo. Cụ thể là tổng lượng nhiệt trong năm lớn, lượng mưa tương đối thấp, trung bình khoảng 1200 mm, mùa khô kéo dài, mùa mưa ngắn kèm theo bão lụt Tài nguyên -Tài nguyên biển và du lịch là thế mạnh của vùng + Tài nguyên biển bờ biển dài khúc khuỷu, bờ biển rộng nhiều bãi tôm bãi cá, nhiều ngư trường lớn thích hợp cho việc khai thác, nuôi trồng thuỷ sản. Vùng còn có một số đặc sản biển có giá trị kinh tế cao tổ chim yến, đồi mồi, tôm hùm. + Tài nguyên du lịch nhất là du lịch biển với các bãi tắm đẹp, các di tích lịch sử, văn hoá. - Ngoài ra vùng còn có một số tài nguyên khác như rừng, khoáng sản, đất thích hợp cho việc phát triển kinh tế nông lâm ngư nghiệp. Khó khăn - Thiên tai thường gây thiệt hại lớn trong điời sống sản xuất của dân cư đặc biệt là mưa bão, hạn hán - Độ che phủ rừng thấp, rừng bị tàn phá cộng với mùa khô kéo dài do đó hiện tượng sa mạc hoá có nguy cơ mở rộng nhất là các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Vì thế việc trồng và bảo vệ rừng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Cite error Invalid tag; refs with no name must have content Đặc điểm dân cư, xã hội[edit] - Duyên hải Nam Trung Bộ có sự khác biệt về dân cư, dân tộc, phân bố và hoạt động kinh tế giữa vùng đồi núi phía Tây và vùng đồng bằng ven biển phía Đông. Khu vực Dân cư Hoạt động kinh tế Đồng bằng ven biển Chủ yếu là người Kinh, một bộ phận nhỏ là người Chăm. Mật độ dân số cao, phân bố tập trung ở các thành phố, thị xã. Hoạt động công nghiệp, thương mại, du lịch, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Đồi núi phía Tây Chủ yếu là các dân tộc Cơ-tu, Ra-glai, Ba-na, Ê-đê,...Mật độ dân số thấp. Tỉ lệ hộ nghèo còn khá cao. Chăn nuôi gia súc lớn bò đàn, nghề rừng, trồng cây công nghiệp. - Đời sống của người dân trong vùng còn nhiều khó khăn nhưng nhân nhân có tính cần cù lao động, giàu kinh nghiệm trong phòng chống thiên tai và khai thác biển xa. Bảng số liệu một số tiêu chí về dân cư, xã hội của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Tiêu chí Đơn vị Năm Duyên hải Nam Trung Bộ Cả nước Mật độ dân số Người/km2 2014 205 274 Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên % 2014 0,86 1,03 Tỉ lệ hộ nghèo % 2014 8,0 5,97 Thu nhập bình quân đầu nguời/tháng Nghìn đồng 2012 1698,4 1999,8 Tỉ lệ nguời lớn biết chữ % 2009 93,8 94,0 Tuổi thọ trung bình Năm 2009 72,2 72,8 Tỉ lệ dân số thành thị % 2014 35,8 33,1 - Duyên hải Nam Trung Bộ là địa bàn có nhiều di tích văn hoá - lịch sử. Trong đó, phố cổ Hội An và Di tích Mỹ Sơn Quảng Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Tình hình phát triển kinh tế[edit] a. Nông nghiệp - Nuôi bò và khai thác nuôi trồng thuỷ sản là thế mạnh trong nông nghiệp của vùng. + Dựa vào vùng gò đồi phía Tây để phát triển đàn bò. + Vùng biển phía Đông giàu tiềm năng, ngư dân có kinh nghiệm đi biển, do đó ngư nghiệp là thế mạnh của vùng + Nghề làm muối, chế biến hải sản cũng khá phát đạt. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là mực, tôm, cá đông lạnh. Một số sản phẩm nông nghiệp ở Duyên hải Nam Trung Bộ Tiêu chí 1995 2000 2005 2010 2014 Đàn bò nghìn con 1026,0 1132,6 1293,3 1322,9 1185,5 Thuỷ sản nghìn tấn 339,4 462,9 623,9 748,1 932,0 - Nghề làm muối, chế biến thuỷ sản khá phát triển, nổi tiếng là muối Cà Ná, Sa Huỳnh, nước mắm Nha Trang, Phan Thiết. b. Công nghiệp Bảng giá trị sản xuất công nghiệp của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và cả nước qua các năm Vùng 2005 2010 2011 2012 2013 Cả nước 988,5 2963,5 3695,1 4506,8 5469,1 Duyên hải Nam Trung Bộ 45,9 208,0 263,4 330,0 424,7 - Cơ cấu công nghiệp của vùng khá đa dạng gồm cơ khí, chế biến thực phẩm, chế biến lâm sản, sản xuất hàng tiêu dùng dệt, may,... Một số cơ sở khai thác khoáng sản đang hoạt động như khai thác cát Khánh Hoà, titan Bình Định,.. Các thành phố Đà Nẵng, Quy Nhơn là trung tâm cơ khí sửa chữa, cơ khí lắp ráp. c. Dịch vụ Phát triển nhất là giao thông vận tải và du lịch - Nhờ điều kiện vị trí thuận lợi là cầu nối Bắc Nam và Đông Tây do đó có khối lượng hàng hoá và hành khách rất lớn được vận chuyển qua địa bàn của vùng + Quan trọng nhất là hoạt động của các cảng biển Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang. Trong đó Đà Nẵng và Quy Nhơn là cảng có hoạt động xuất nhập khẩu có quy mô ngày càng lớn. + Giao thông Bắc – Nam với quốc lộ 1A, đường sắt Thống Nhất. + Giao thông Đông Tây với các tuyến từ Tây Nguyên ra cảng biển của vùng quốc lộ 14, 24, 19, 25, 26, 27, 28. - Du lịch là một trong những thế mạnh rất lớn của vùng, hoạt động du lịch biển diễn ra sôi động quanh năm tại các bãi biển Nha Trang, Qu Nhơn, Đà Nẵng, các quần thể di sản văn hoá phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn …. Nha Trang được coi là thành phố du lịch của vùng và của cả nước. Các trung tâm kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung[edit] - Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang là 3 trung tâm kinh tế lớn của vùng đồng thời được coi là cửa ngõ của Tây Nguyên. Cả 3 đều là thành phố biển, tập trung nhiều ngành công nghiệp với các hoạt động xuất nhập khẩu nhộn nhịp nhất vùng. - Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh và thành phố có vai trò thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả 3 vùng. Tham khảo[edit] SGK Địa lí 9 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam tái bản lần thứ mười lăm - 2020. Duyên hải Nam Trung BộVùng của Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia Duyên hải Nam Trung Bộ cũng được gọi là Nam Trung Bộ[1] là vùng địa phương ven biển của phía nam thuộc Trung Bộ Việt Nam, với thành phố trọng điểm và lớn nhất là thành phố Đà Nẵng. Vị trí vùng Duyên hải Nam Trung Bộ trên bản đồ Việt Nam Mùa hè, khi những ánh nắng chói chang đang dần phủ bóng xuống muôn nơi, khi những cành phượng đỏ rực một góc trời, mọi người lại kéo nhau đi du lịch biển. Dường như biển trở thành địa điểm lý tưởng cho những tour du lịch mùa hè, du khách lại tìm về với biển để thỏa sức vẫy vùng trong những ngày hè nóng bức. Biển mang lại cho du khách cảm giác thoải mái tuyệt vời, một nơi trốn nóng lý tưởng lúc hè về. Biển như dang rộng vòng tay mát lạnh, đón tất cả mọi du khách trên mọi miền tổ quốc. Đến với biển du khách còn được thưởng thức nhiều hương vị hải sản có mặt mọi nơi trên vùng biển và được sáng tạo theo nhiều hình thức, vừa mang đặc trưng vùng miền, vừa du nhập văn hóa ẩm thực của các nước trên thế giới, tạo nên những món ăn đa màu sắc, nhiều hương vị, phù hợp với khẩu vị của từng người. . [Type the company name]2015TIỂU LUẬN VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ 12 TOÁN 1Hoàng Anh Quân – Kiều Thị Thùy Dương – Trần Hữu Phúc – Phạm Thị Quỳnh Trang – Nguyễn Thị Ngọc Mai – Bùi Thị Thu HươngVị Trí Địa Lý Và Lãnh Thồ Vùng Duyên Hải Nam Trung BộVùng Duyên hải Nam Trung Bộ bao gồm thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận; có diện tích tự nhiên gần 44,4 nghìn km2, số dân gần 8,9 triệu người, chiếm 13,4% diện tích và 10,5% số dân của cả nước năm 2006.Thuộc về Duyên hải Nam Trung Bộ còn có các đảo xa bờ là Hoàng Sa huyện đảo thuộc thành phố Đà Nẵng và Trường Sa huyện đảo thuộc tỉnh Khánh Hòa.Duyên hải Nam Trung Bộ có đặc điểm tự nhiên rất đặc sắc một dải lãnh thổ hẹp, mà phía tây là sườn Đông của Trường Sơn Nam, ôm lấy Tây Nguyên rộng lớn, phía đông là Biển Đông. Phía bắc có dãy núi Bạch Mã làm ranh giới tự nhiên với Bắc Trung Bộ, còn phía nam là Đông Nam Bộ. Các nhánh núi ăn ngang ra biển đã chia nhỏ phần duyên hải thành các đồng bằng nhỏ hẹp, tạo nên hàng loạt các bán đảo, các vũng vịnh và nhiều bãi biển Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí địa lý kinh tế rất thuận lợi, nằm trên trục các đường giao thông bộ, sắt, hàng khôngvà biển, gần Thành phố Hồ Chí Minh và khu tam giác kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ; cửa ngõ của Tây Nguyên, của đường xuyên Á ra biển nối với đường hàng hải quốc ĐỒ TỰ NHIÊN VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘNGHỀ CÁNơi đây thuận lợi vì có nhiều bãi tôm, bãi cá. Đặc biệt ở vùng cực Nam Trung Bộ. Có ngư trường lớn ở Hoàng Sa TP Đà Nẵng và Trường Sa tỉnh Khánh Hòa.Sản lượng đánh bắt hải sản năm 2006 đã hơn tấn, trong đó sản lượng cá chiếm có nhiều vũng, vịnh, đầm phá thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Nuôi tôm hùm, tôm sú đang phát triển mạnh, nhất là ở Phú Yên và Khánh lai ngành thủy hải sản sẽ giải quyết được vấn đề lương thực của vùng và cung cấp được nhiều sản phẩm giúp chuyển dịch cơ cấu nông thôn ven nhiên, việc khai thác hợp lí và bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhất là Hoàng Sa - Trường Sa là rất cấp bách. Trữ lượng nguồn lợi hải sản ở vùng biển Trung Bộ ước tính khoảng 712 ngàn tấn dao động trong khoảng 696 - 726 ngàn tấn, với 86,6% cá nổi nhỏ và 13,3% hải sản tầng đáy. Trữ lượng nguồn lợi ở vùng bờ, vùng lộng chiếm tỷ lệ khoảng 31,2% và ở vùng khơi chiếm 68,8% tổng trữ lượng. Khả năng khai thác khoảng 294,4 nghìn tấn trong đó có những loài có giá trị kinh tế cao cá thu, ngừ…. Trữ lượng nguồn lợi hải sản vùng giữa biển Đông ước tính khoảng ngàn tấn với 99,4% cá nổi lớn, 0,5% là cá nổi nhỏ và 0,1% cá rạn san hô, khả năng khai thác khoảng 414,4 nghìn tấn đặc biệt trong đó có trữ lượng ước tính cá ngừ đại dương cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to năm 2004 vào khoảng - tấn, khả năng khai thác bền vững khoảng tấn. Trên thực tế, sản lượng đánh bắt cá ngừ đại dương năm 2004 ước đạt khoảng tấn Bộ Thủy sản, 2005. Theo báo cáo thống kê năm 2004, sản lượng cá ngừ xuất khẩu đạt tấn, trong đó cá ngừ đại dương chiếm khoảng 50% tổng sản lượng xuất khẩu. Năm 2005, sản lượng cá ngừ xuất khẩu đạt tấn, trong đó cá ngừ đại dương ước tính khoảng - tấn Trung tâm thông tin - Bộ Thủy sản, 2005. Như vậy, sản lượng khai thác cá ngừ đại dương hiện nay có thể đã đạt đến mức khai thác bền vững tối đa ở vùng biển Việt tích có khả năng nuôi trồng thủy sản của Vùng hơn ha, diện tích các vùng nước ngọt nội địa không lớn, chỉ có khoảng ha; vùng triều chỉ chiếm hơn 1% diện tích tự nhiên của toàn Vùng; trên ha eo vịnh kín gió có độ mặn rất cao 3nên có thể phát triển nuôi biển với các quy mô và phương thức khác nhau. Trong những năm qua, ngành thủy sản các tỉnh duyên hải miền Trung đã đạt được một số kết quả sản xuất đáng ghi nhận - Diện tích nuôi trồng ước đạt ha; sản lượng ước đạt tấn. - Số lượng tàu thuyền khai thác hải sản là tàu trong đó có gần tàu có công suất trên 90 CV, sản lượng khoảng tấn trong đó sản lượng cá ngừ ước tính của nghề lưới rê đạt tấn, nghề câu vàng đạt tấn. - Số lượng nhà máy chế biến trên 100 nhà máy, sản lượng khoảng tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 500 triệu USD. - Toàn Vùng có 41 cảng cá và 23 bến cá trong đó có 4 cảng cá loại I; 57 khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá trong đó có 7 khu neo đậu cấp vùng. Năm 2004, số lượng tàu câu vàng cá ngừ đại dương có chiếc, tập trung ở các đội tàu có công suất >90CV Bộ Thủy sản, 2004, chủ yếu tập trung ở các tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh và Kiên Giang. Theo thống kê mới nhất, tính đến 31/5/2006, số lượng tàu câu vàng cá ngừ đại dương có công suất trên 90CV là 921 chiếc trong tổng số chiếc tàu khai thác xa bờ Cục KT&BV Nguồn lợi Thủy sản, 2006.Ưu tiên đầu tư hạ tầng, cảng cá Tại Hội nghị phát triển bền vững vùng Duyên hải miền Trung được tổ chức tại Quảng Nam tháng 6/2014, ông Lê Phước Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, trên địa bàn 9 tỉnh, thành phố miền Trung có 17 khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá với sức chứa khoảng tàu có công suất dưới 400 CV. Nhưng trên thực tế, các khu này vẫn tận dụng điều kiện tự nhiên là chủ yếu và chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của ngư dân và yêu cầu tránh, trú trong tình huống thiên tai. Nguyên nhân, thiết kế, xây dựng không đồng bộ do thiếu nguồn kinh phí, hệ thống luồng vào không đảm bảo do luôn bị bồi không có âu thuyền khiến ngư dân chưa mạnh dạn trong đầu tư ngư lưới cụ để phục vụ khai thác trên phá và đánh bắt xa bờ. Ông Nguyễn Thu, ngư dân xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi cho biết, khi vươn khơi đều đưa tàu vào đất liền nạp nhiên liệu, mua nước đá và các vật dụng cần thiết. Mỗi chuyến ra vào như vậy tốn 200 lít dầu, tương đương 5 triệu đồng. "Ngư dân Lý Sơn chúng tôi mong muốn vùng neo đậu tàu thuyền Lý Sơn sớm hoàn thiện để tránh trú bão an toàn cho khoảng 500 tàu công suất 400 CV, hình thành cơ sở hạ tầng nghề cá tại địa phương để ngư dân an tâm bám biển làm ăn".Mới đây, tại buổi làm việc tại Đà Nẵng, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh nhấn mạnh, Chính phủ ưu tiên tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, các khu cảng, neo đậu, trú tránh bão cho tàu thuyền khu vực miền Trung. Theo Quy hoạch khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 1349/2011/QĐ-TTg, vùng miền Trung sẽ có 72 khu neo đậu, tránh bão cho tàu thuyền. Tổng vốn đầu tư thực hiện quy hoạch tỷ đồng. Chính phủ đã có Quyết định số 346/QĐ-TTg ngày 15/3/2010 về việc Phê duyệt quy hoạch cảng cá, bến cá Đà Nẵng đến năm 2020, trong đó cảng cá Thọ Quang là cảng cá loại I, đồng thời bổ sung thêm 1 âu thuyền tại Đà Nẵng. Tại Quảng Nam, ngoài việc nâng cấp âu thuyền Hồng Triều và An Hòa, UBND tỉnh đang đầu tư xây dựng khu neo đậu 4Biểu đồ diện tích nuôi trồng thủy sản ở Duyên Hải Nam Trung Bộtàu thuyền Cửa Đại để sớm đưa vào hoạt động trước mùa mưa bão năm nay. Trong khi đó, dự án âu thuyền Đề Gi tỉnh Bình Định cũng được tài trợ 47 tỷ đồng để mở rộng khu neo đậu trú bão, các dịch vụ nghề cá bất cập, âu thuyền bất anCác tỉnh Duyên hải miền Trung có nghề cá lâu đời, đội tàu đánh bắt tương đối lớn với hàng trăm ngàn lao động trên biển, nhưng lâu nay công tác hậu cần nghề cá vẫn chưa được quan tâm đúng mứTại Quảng Nam có 3 cảng cá là Tam Kỳ, Cửa Đại và An Hòa, nhưng đều bất cập, thiếu đồng bộ trong xây dựng các hạng mục và thiếu hợp lý khi lựa chọn địa điểm nên vô tình gây khó, buộc ngư dân phải cập vào các cảng cá do tư nhân xây dựng manh mún và tự phát. Ông Nguyễn Văn Khương, Trưởng phòng Kinh tế TP. Hội An cho biết Cảng cá Cửa Đại được phê duyệt và tiến hành xây dựng từ năm 1999 với số vốn đầu tư gần 19 tỷ đồng. Năm 2003, dự án xây dựng xong bờ rào, cầu cảng, nhà tiếp nhận thủy sản và một vài hạng mục khác. Sau đó, dự án phải tạm dừng để chuyển giao cho Công ty Đầu tư xây dựng, TM&DV Cù Lao Chàm. "Từ khi chuyển giao đến nay, công trình hoàn toàn không được xây dựng thêm nên không được sử dụng cho mục đích thiết thực nào" - ông Khương cá Tư Hiền, xã Vinh Hiền huyện Phú Lộc do Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thừa thiên - Huế làm chủ đầu tư với kinh phí 29 tỷ đồng, được bắt đầu xây dựng vào tháng 8/2004 và hoàn thành vào tháng 8/2010. Tuy nhiên, hơn 3 năm nay công trình này phơi mưa, phơi nắng, dẫn đến hư hỏng nặngNhật Bản chuyển giao công nghệ câu cá ngừ đại dương của Nhật cho ngư dân tỉnh Bình Định5Ngày 10/6, tại cửa biển Tam Quan Bắc, xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn Bình Định, UBND tỉnh Bình Định phối hợp với Hội hữu nghị Nhật - Việt tại Sakai tổ chức Lễ Giao nhận thiết bị và công nghệ câu cá ngừ đại dương của Nhật cho ngư dân tỉnh Bình Masakazu Shoga, chia sẻ thêm Hàng năm, Nhật Bản tiêu thụ khoảng tấn cá ngừ đại dương, trong đó có tấn phải nhập từ nước ngoài, nhưng chỉ tấn cá tươi, tấn là đông lạnh. Đặc biệt, các nước nhập khẩu cá sang thị trường Nhật thì có tới 80% ngư dân đang sử dụng những thiết bị và công nghệ của chúng tôi cung cấp. Vì thế, chúng tôi tin khi áp dụng thành công ở Bình Định, có thể áp dụng rộng rãi cho ngư dân Việt Nam. Chúng tôi rất muốn những ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương sẽ bán được với giá cao hơn giúp người dân đỡ khổ”.1. Điểm mạnh - Hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt, hàng không phát triển dọc ven biển, bờ biển dài, sâu, có nhiều eo, vịnh vì vậy vùng này có lợi thế để xây dựng các trung tâm nghề cá lớn gắn với ngư trường trọng điểm. - Toàn Vùng có hệ thống đào tạo tương đối hoàn chỉnh, nổi bật nhất là các cơ sở có truyền thống trong đào tạo nguồn nhân lực thủy sản Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, Đại học Nha Trang, Đại học Nông Lâm - Đại học Huế. Phần lớn dân cư phân bố dọc ven biển, cơ cấu dân số trẻ so với cả nước và các vùng kinh tế khác, lao động nghề cá truyền thống đông đảo, có kinh nghiệm, dũng cảm, sáng tạo. - Vị trí địa lý Vùng gần các ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa, DK1 nên có tiềm năng phát triển khai thác hải sản xa bờ, đặc biệt là khai thác cá ngừ đại dương. Nước biển khu vực ven bờ vùng duyên hải Nam Trung Bộ có độ mặn cao và sạch, là điều kiện lý tưởng để Vùng trở thành khu vực sản xuất giống hải sản tốt nhất ở nước ta. Diện tích mặt biển lớn với các eo, vịnh, đầm phá rất thuận lợi phát triển nuôi Điểm yếu - Xuất phát điểm nền kinh tế của các địa phương thấp, tích lũy đầu tư nhỏ khó cân đối nguồn lực phát triển ngành. Doanh nghiệp năng lực cạnh tranh thấp, thiếu liên kết giữa các thành phần trong chuỗi giá trị sản xuất, chưa có sản phẩm chủ lực có thương hiệu. Cơ sở hạ tầng, hệ thống dịch vụ hậu cần nuôi trồng, chế biến thương mại đặc biệt là cho khai thác hải sản xa bờ rất yếu kém, không đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất. - Lao động nghề cá chưa qua đào tạo còn lớn; tỷ lệ lao động lành nghề, đáp ứng cao yêu cầu doanh nghiệp thấp; thiếu hụt nghiêm trọng nguồn lao động chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực trình độ Các hoạt động phát triển nuôi trồng thủy sản NTTS tự phát đã tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, đa dạng sinh học, bùng nổ bệnh tôm, ô nhiễm nước cục bộ đã từng phát sinh và ảnh hưởng đến tính bền vững của nuôi trồng thủy sản. Nguồn lợi thủy sản đang bị khai thác bừa bãi cũng dẫn đến tình trạng suy giảm tính đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên Cơ hội - So sánh lượng cung - cầu theo dự báo cho thấy nhu cầu thủy sản và các sản phẩm thủy sản sẽ cao hơn lượng cung tiềm năng trong đó tiêu thụ thủy sản với nhịp độ cao hơn là do sự gia tăng nhanh hơn về dân số và thu nhập. - Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là cơ hội mở rộng thị trường, tạo đầu ra, khuyến khích mở rộng sản xuất đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý 6của nước ngoài. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh học, trở thành động lực thúc đẩy trong quá trình phát triển thủy Thách thức - Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng nhóm ngành mà Vùng cũng có lợi thế phát triển như du lịch, công nghiệp hóa dầu, cảng biển và quá trình đô thị hóa tạo nên mâu thuẫn trong sử dụng các nguồn lực để phát triển thủy sản mặt đất, mặt nước, nguồn nước, vốn, lao động. - Tranh chấp chủ quyền trên biển cản trở hoạt động khai thác hải sản của ngư dân miền Trung tại các ngư trường truyền thống xa bờ. - Điều kiện khí hậu và tự nhiên rất khắc nghiệt, nhiều thiên tai nhất là bão, lũ lụtát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải tạo ra thế mở cửa hơn nữa cho vùng và cho sự phân công lao động mới. Việc nâng cấp quốc lộ 1 và đường sắt Bắc - Nam không chỉ làm tăng vai trò trung chuyển của Duyên hải miền Trung, mà còn giúp đẩy mạnh sự giao lưu giữa các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ với thành phố Đà Nẵng một trung tâm phát triển ở phía bắc của vùng và với Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, Đông Nam Bộ nói chung.  Các dự án phát triển các tuyến đường ngang như các đường 19, 26… nối Tây Nguyên với các cảng nước sâu, giúp mở rộng các vùng hậu phương của các cảng này và giúp cho Duyên hải Nam Trung Bộ mở cửa hơn nữa. Duyên hải Nam Trung Bộ sẽ có vai trò quan trọng hơn trong quan hệ với các tỉnh Tây Nguyên, khu vực Nam Lào và Đông Bắc Thái Hệ thống sân bay của vùng đã được khôi phục, hiện đại, gồm sân bay quốc tế Đà Nẵng và các sân bay nội địa như Chu Lai, Quy Nhơn, Cam Ranh, Tuy Hoà. Nam Trung bộ có sân bay Đà Nẵng là một trong 3 cảng hàng không quốc tế lớn của Việt Nam. Vùng còn có nhiều sân bay nội địa như Phú Cát Bình Định, Nha Trang, Cam Ranh Khánh Hoà… cùng hàng ngàn km đường bộ, đường sắt. Về đường biển, vùng có nhiều cảng biển quan trọng như cảng Đà Nẵng, Tiên Sa, Liên Chiểu Đà Nẵng, Kỳ Hà Quảng Nam… tạo nên hệ thống cảng biển phục vụ cho phát triển kinh tế vùng và tạo thành con đường huyết mạch trên biển thông thương với khu vực và thế giới. Vùng có nhiều khu kinh tế mở như Chu Lai Quảng Nam, Dung Quất Quảng Ngãi, Nhơn Hội Bình Định với cơ sở hạ tầng tương đối hoàn LỊCH8Sân Bay Đà NẵngVùng này có 3 địa bàn trọng điểm du lịch là1. Đà Nẵng - Quảng Nam gắn với Sơn Trà, Hải Vân, Hội An, Mỹ Sơn…2. Bình Định - Phú Yên - Khánh Hòa gắn với các bãi biển Phương Mai, Đầm Ô Loan, vịnh Nha Trang, Cam Ranh…3. Bình Thuận gắn với biển Mũi Né, đảo Phú Quý Vùng này có những bờ biển đẹp như Quy Nhơn, Ninh Chữ, Sa Huỳnh và nhiều suối nước nóng. Ngoài khơi nhiều đảo đá lớn, nhỏ. Duyên hải Nam Trung Bộ có tiềm năng du lịch dồi dào, với sự kết hợp hài hoà giữa biển và núi, có nhiều vịnh đẹp như Dung Quất, Đại Lãnh, Văn Phong. Nơi đây có nhiều di tích như thành cổ Trà Bàn và các tháp Chàm. Đặc biệt, Đà Nẵng - Quảng Nam là vùng đất gắn liền với văn hoá Sa Huỳnh, có nhiều cung điện, đền đài, thành quách uy nghi, tráng lệ, vẫn còn để lại nhiều dấu tích ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu Ngoài ra còn các danh lam thắng cảnh Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, Cù Lao Chàm, đèo Hải Vân, các bãi biển Mỹ An, Non Nước với dải cát trắng mịn kéo dàiĐứng về góc độ du lịch, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí thuận lợi trong mối liên kết vùng để phát triển du lịch Duyên hải Nam Trung Bộ nằm trên tuyến du lịch xuyên Việt, là cầu nối du lịch Bắc - Nam; điểm đầu của các tuyến du lịch “Con đường Di sản Miền Trung”, “Con đường xanh Tây Nguyên”, "Cửa ngõ miền Đông Nam bộ", đầu cầu và cũng là cửa ngõ ra biển Đông của hành lang du lịch Đông - Tây. Đây cũng là khu vực có nhiều tiềm năng nổi bật về du lịch biển, du lịch sinh thái và du lịch văn hoá. Vì vậy, sự phát triển du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ không chỉ có ý nghĩa động lực đối với du lịch các tỉnh trong vùng nói riêng mà còn đối với du lịch cả nước nói Duyên hải Nam Trung Bộ với có hệ thống tài nguyên du lịch hấp dẫn về tự nhiên và văn hóa, bao gồm- Các tài nguyên tự nhiên gắn với biển, đảo duyên Các di sản văn hóa gắn với văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Di tích lịch sử gắn với khởi nghĩa Tây Sơn, di tích lịch sử cách mạng gắn với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân Bản sắc văn hóa các dân tộc ít người phía Đông Trường hải Nam Trung Bộ cũng là nơi được thiên nhiên ưu đãi và ban tặng nhiều sản vật có giá trị và nhiều đặc sản tự nhiên phục vụ văn hóa ẩm thực như mỳ Quảng Quảng Nam, cá 9Cáp treo Bà Nàbống sông Trà, tỏi Lý Sơn Quảng Ngãi, rượu Bàu Đá Bình Định, bánh canh Phú Yên, nem Ninh Hòa Khánh Hòa, thanh long Bình Thuận Tài nguyên du lịch biển, đảo và di tích lịch sử văn hoá dân tộc là nguồn lực quan trọng, trong đó nổi bật là dải Đà Nẵng - Non Nước - Hội An Quảng Nam, Đà Nẵng và Nha Trang - vịnh Cam Ranh Khánh Hoà, đặc biệt vịnh Cam Ranh có thể phát triển thành điểm du lịch biển, đảo có tầm cỡ quốc tế. Các điểm tài nguyên nổi bật Bà Nà, Sơn Trà, Non Nước Đà Nẵng; Hội An, Mỹ Sơn, Cù Lao Chàm Quảng Nam; Mỹ Khê, Trường Lũy, Lý Sơn Quảng Ngãi, Phương Mai, Quy Nhơn Bình Định, Vịnh Xuân Đài, Đầm Ô Loan Phú Yên; Nha Trang, Cam Ranh, Trường Sa Khánh Hòa; Cà Ná, Ninh Chữ, Vĩnh Hy Ninh Thuận, Phan Thiết, Mũi Né, đảo Phú Quý Bình Thuận. Với vị trí địa lý quan trọng, và những đặc thù về tài nguyên, Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 định hướng vùng Duyên hải Nam Trung Bộ là một trong bảy vùng du lịch cả nước, giữ vai trò hết sức quan trọng đối với du lịch Việt gian qua du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã được các cấp chính quyền ở các địa phương trong vùng quan tâm đầu tư khai thác có bước phát triển và đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển du lịch 2011, là năm du lịch quốc gia Phú Yên với chủ đề du lịch biển đảo, ngành du lịch các địa phương trong vùng đã đạt được những thành tựu đáng ghi số liệu thống kê từ các địa phương, năm 2012 các tỉnh trong vùng đón được hơn 2 triệu lượt khách du lịch quốc tế và hơn 7 triệu lượt khách nội địa, thu nhập du lịch đạt hơn tỷ phát triển du lịch đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và làm thay đổi diện mạo của nhiều tỉnh trong vùng, tạo nên nhiều công ăn việc làm, đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào vùng sâu vùng xa, củng cố vững chắc quốc phòng - an ninh vùng biển và hải đảo. Những kết quả thu được của sự phát triển du lịch ở các tỉnh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ trong thời gian vừa qua thực sự đáng ghi sự phát triển du lịch vùng có sự đóng góp của việc khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch biển đảo gắn với đặc trưng của các di sản văn hóa, tạo nên sự thu hút nhất định đối với khách du lịch trong nước và quốc biển Nha TrangTuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự phát triển du lịch vùng vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Du lịch phát triển còn manh mún, chưa tương xứng với tiềm năng, thiếu tầm nhìn tổng thể và sự liên kết phát triển du lịch toàn vùng, ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định, bền vững. Đó là bài học kinh nghiệm không chỉ cho vùng Duyên hải Nam Trung Bộ mà còn cho các vùng khác thuộc lãnh thổ du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc Sản Nhà máy lọc dầu Dung QuấtVùng Duyên hải Nam Trung Bộ khoáng sản không nhiều.• Các loại khoáng sản như sa khoáng nặng, cát trắng ở Khánh Hòa, vàng ở Bồng Miêu, than ở Nông Sơn, đá ốp lát, nước khoáng, vàng, cao lanh, ti tan và dầu khí trên thềm lục địa ở cựcNam Trung Bộ… Với các nguồn tài nguyên khoáng sản tuy không nhiều nhưng nơi đây cũng đã tiến hành khai thác và hình thành các trung tâm công nghiệp với quy mô trung bình và nhỏ phân bố dọc ven biển như lớn nhất là Đà Nẵng, tiếp đến là Dung Quất, Nha Trang, Quy Nhơn, Phan Thiết công nghiệp chủ yếu là cơ khí, chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất hàng tiêu dùng, VLXD, hóa đầu thu hút đầu tư nước ngoài vào hình thành các khu công nghiệp tập trung và khu chế điện Đa Nhim Ninh Thuận Khai thác cát thủy tinh ở Nha TrangĐể phát triển công nghiệp cũng như phát triển các hoạt động kinh tế khác thì cần phát triển công nghiệp năng lượng, tuy nhiên nơi đây còn rất hạn chế về tài nguyên nhiên liệu, năng lượng + Sử dụng điện lưới quốc gia từ đường dây 500 KV.+ Tiềm năng thủy điện có thế xây dựng các nhà máy công suất trung bình và nhỏ tận dụng nguồn nước từ Tây Nguyên đưa xuống như thuỷ điện sông Hinh Phú Yên, Hàm Thuận-Đa Mi Bình Thuận, Vĩnh Sơn Bình Định, A Vương Quảng Nam, thủy điện Đa Nhim.+ Dự kiến xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên ở nước ta tại vùng muối tại Sa Huỳnh• Do vùng địa lý khu vực này thời tiết gần như nắng nóng quanh năm, nhiệt độ không khí cao, hàm lượng muối trong nước biển cao, địa hình bằng phẳng, người dân lại có truyền thống kinh nghiệm lâu đời nên thuận lợi cho nghề làm nay, việc sản xuất muối công nghiệp đem lại năng suất vùng sản xuất muối nổi tiếng nơi đây như Cà Ná, Sa Huỳnh… Đề cập đến vùng muối thuộc 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa có lợi thế về điều kiện tự nhiên để phát triển các đồng muối công nghiệp có năng suất chất lượng cao. Dù vậy tình hình sản xuất muối của diêm dân chủ yếu vẫn theo phương pháp thủ công, nên năng suất, chất lượng thấp, đời sống của người làm muối còn gặp nhiều khó khăn. Diện tích muối công nghiệp chiếm 18,1% tổng diện tích muối, muối sạch còn chiếm tỷ lệ nhỏ, chưa được chú trọng đầu tư mở rộng sản xuất do vốn đầu tư lớn. Cơ sở hạ tầng đồng muối hiện đang xuống cấp nghiêm trọng đặc biệt hệ thống thủy lợi. Thị trường muối tiêu thụ muối còn gặp nhiều khó khăn nhất là muối của diêm dân. Báo cáo giới thiệu công nghệ sản xuất muối theo phương pháp kết tinh trên ruộng trải bạt đã tăng năng suất từ 20 – 80%, chất lượng sản phẩm và giá bán cao hơn muối thường từ 10 – 20%.Dự kiến đến năm 2020 diện tích muối có ha, sản lượng đạt 2 tiệu tấn. Trong đó diện tích muối công nghiệp có tập trung ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh đảo và quần đảo thuộc vùng Duyên hải Nam trung bộVùng duyên hải Nam Trung Bộ có hai quần đảo lớn xa bờ quần đảo Hoàng Sa Đà Nẵng và quần đảo Trường Sa Khánh Hòa cùng với nhiều đảo nhỏ ven bờ đảo Bình Đa, đảo Bình Hưng Khánh Hòa, đảo Phú Quý Bình Thuận, đảo Lý Sơn,…các đảo và quần đảo đều mang lại nhiều lợi ích cho kinh tế biển vùng này đánh bắt gần bờ và xa bờ, du lịch biển đảo, khai thác các đặc sản, khoáng sản từ biển, giao thông vận tải biển và bảo vệ an ninh quốc cho đất nước ta tiêu biểu là hai quần đảo Hoàng Sa Trường đảo Hoàng SaQuần đảo Hoàng Sa là một tập hợp trên 30 đảo san hô, cồn cát, ám tiêu rạn san hô nói chung trong đó có nhiều ám tiêu san hô vòng hay còn gọi là rạn vòng và bãi ngầm thuộc biển Đông, ở vào khoảng một phần ba quãng đường từ miền Trung Việt Nam đến phía bắc Philippines. Quần đảo trải dài từ 15°45′ đến 17°15′ Bắc và từ 111°00′ đến 113°00′ Đông, có bốn điểm cực bắc-nam-tây-đông lần lượt tại đá Bắc, bãi Ốc Tai Voi, đảo Tri Tôn và bãi Gò Nổi. Độ dài đường bờ biển đạt 518 km. Điểm cao nhất của quần đảo là một vị trí trênđảo Đá với cao độ 14 m hay 15,2 m. Vùng biển Hoàng Sa trong biển Đông nằm trong vùng "xích đạo từ". 12Hiện nay, Biển Đông có vai trò quan trọng về phương diện kinh tế và quân sự đối với Trung Quốc, các nước Bắc Á và các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, bao gồm Brunei,Campuchia, ĐôngTimor, Indonesia, Lào không có lãnh hải, Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Biển Đông còn là thủy đạo nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua Eo biển Malacca. Mọi di chuyển bằng hàng hải giữa các quốc gia thuộc Vòng đai Thái Bình Dương với vùng Đông Nam Á, Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung Hải và xuống châu Úc đều thường xuyên đi qua vùng biển này. Hoàng Sa là một quần đảo nằm trên thủy lộ đó. Những tranh chấp căng thẳng đã và đang xảy ra tại Hoàng Sa cho thấy việc kiểm soát Hoàng Sa vô cùng quan trọng trong việc nắm quyền kiểm soát thuỷ đạo quan trọng của Đông Nam Á và của thế giới. Điều này ảnh hưởng đến quyền tự do hàng hải của tất cả các quốc gia trên thế giới chứ không chỉ liên quan đến lợi ích riêng của các nước tham gia tranh chấp quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, Biển Đông còn là nguồn cung cấp hải sản, dầu thô, và khí đốt rất đáng kể. Theo Cục Thông tin Năng lượng Mỹ EIA, ở Biển Đông chỉ có khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên. Các mỏ dầu và khí đốt tại đây thường nằm trong các vùng lãnh thổ không có tranh chấp, gần bờ biển của các quốc gia xung quanh biển Đông nhưng Biển Đông đóng góp tới 10% sản lượng cá đánh bắt được trên toàn cầu tạo ra giá trị hàng tỷ USD. Việc kiểm soát Hoàng Sa là lợi thế đối với việc giành quyền kiểm soát biển Đông và các nguồn tài nguyên tại đảo Trường SaQuần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá ám tiêu san hô nói chung trong đó có rất nhiều rạn san hô vòng, tức rạn vòng hay còn gọi là ám tiêu san hô vòng, "đảo" san hô vòng và bãi ngầm rải rác từ 6°12' đến 12°00' vĩ Bắcvà từ 111°30' đến 117°20' kinh Đông, trên một diện tích gần km²Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá 5 km do số lượng đảo thực sự rất ít mà chủ yếu là các rạn san hô thường và rạn san hô vòng chìm ngập dưới nước khi thủy triều lên. Các hòn đảo san hô ở Trường Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh với một quần đảo san hô khác gần đó là quần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của Trường Sa nằm trên đảo Song Tử Tây với cao độ 4 m so với mực nước biển. Môi trường của quần đảo Trường Sa bị xâm hại nghiêm trọng do ngư dân từ Việt Nam, Philippines và miền nam Trung Quốc khai thác thuỷ sản bằng các phương pháp tận diệt như vét cá, đánh cá bằng thuốc nổ và bằng chất độc natri xyanua. Binh lính các quốc gia đóng quân tại đây khai thác rùa biển và trứng của chúng, đồng thời còn đe doạ các sinh vật nhạy cảm sống ở nơi nước nông khi họ xây dựngcông sự và đường băng. Nhiều năm qua đã có một số nỗ lực nhằm bảo vệ môi trường sinh thái ở quần đảo. Ngày 8 tháng 6 năm 1982, Bộ Tài nguyên Philippines lập hai khu bảo tồn rùa biển ở đảo Loại Ta và đá An Nhơn; từ tháng 8 năm 2008, có thêm khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng trên đảo Thị Tứ; 13trên đảo Vĩnh Viễn có khu bảo tồn chim. Ngày 3 tháng 3 năm 2007, Đài Loan lập khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng, lấy đảo Ba Bình là trung tâm rồi mở rộng ra 12 hải lý xung quanh. Việt Nam thì có kế hoạch lập khu bảo tồn biển xung quanh đảo Nam Yết với diện tích ha từ năm 2010. Quần đảo Trường Sa vốn không có đất trồng trọt và không có dân bản địa sinh sống. Các đảo thuộc Trường Sa thiếu khả năng duy trì đời sống kinh tế riêng đầy đủ bởi vì chúng quá nhỏ, khô cằn và có rất ít tài nguyên trên đảo. Tuy trên các đảo chỉ có một vài tài nguyên nhưng nguồn lợi thiên nhiên của vùng biển quần đảo Trường Sa thì lại rất có giá trị, ví dụ hải sản và tiềm năng dầu mỏ - khí đốt. Vào năm 1980, dân chúng trong vùng đánh bắt được 2,5 triệu tấn hải sản từ khu vực quần đảo Trường Sa. Từ tháng 5 năm 2005, Việt Nam đã cho xây dựng trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá tại bãi đá Tây; diện tích đến 2013 đã đạt mét vuông, sở hữu trang bị hiện đại, hỗ trợ nhiều mặt cho ngư dân nước này. Về tiềm năng dầu khí và khoáng sản khác, hiện địa chất vùng biển quần đảo vẫn chưa được khảo sát nhiều nên chưa có các số liệu đánh giá đáng tin cậy. Tuy nhiên, Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản Trung Quốc ước tính vùng quần đảo Trường Sa có trữ lượng dầu và khí thiên nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỉ tấn so với con số 13 tỉ tấn của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế biển Trường Sa cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông đúc nhất trên thế giới. Trong thập niên 1980, mỗi ngày có ít nhất hai trăm bảy mươi lượt tàu đi qua quần đảo Trường Sa, và "hiện tại" hơn một nửa số tàu chở dầu siêu trọng của thế giới chạy qua vùng biển này hàng năm. Quần đảo Trường Sa hiện chưa có cảng lớn mà chỉ có một số cảng cá và đường băng nhỏ trên các đảo có vị trí chiến lược nằm gần tuyến đường vận chuyển tàu biển chính. Tuy nhiên, tàu thuyền lưu thông qua vùng này có thể gặp nhiều khó khăn do phải đối mặt với nguy hiểm từ gió bão, sóng lớn và nguy cơ bị mắc cạn hay va phải các rạn đá tại khu vực khí hậu nhiệt đới và có hệ sinh thái đa dạng, quần đảo Trường Sa có tiềm năng để thu hút khách du lịch. Tháng 6 năm 2011, Tổng cục Du lịch của Việt Nam mở hội thảo và công bố đề án phát triển du lịch hướng về biển đảo, trong đó đề cập đến dự định mở tuyến du lịch ra Trường Sa. Tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển ĐôngCác đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với nhiều nước. Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm trọng yếu Thứ nhất là eo biển Malacca nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và Malaysia. Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và Bắc Á phải đi qua. Ba eo biển thuộc chủ quyền của lndonesia là Sunda, Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống eo biển Malacca ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí cao hơn vì quãng đường dài hơn. Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển Đông, nơi có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường tuyến đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước Châu Á. Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung Quốc 22% trị 14giá khoảng 31 tỷ đô la. Nếu khủng hoảng nổ ra ở vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy theo đường mới hoặc vòng qua Nam Australia thì cước phí vận tải thậm chí sẽ tăng gấp năm lần và không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông. Tất cả những nước tham gia tranh chấp Trường Sa , trừ Brunei, đều có quân đội đồn trú tại nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đá ngầm khác nhau. Tháng 3 năm 1988, Việt Nam và Trung Quốc đụng độ quân sự tại ba rạn đá là Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Tháng 2 năm 1995 và tháng 11 năm 1998, giữa Trung Quốc và Philippines đã hai lần bùng phát căng thẳng chính trị do hành động giành và củng cố quyền kiểm soát đá Vành Khăn của phía Trung Quốc. Dù rằng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển đã ra đời nhằm xác định các vấn đề về ranh giới trên biển nhưng bản thân Công ước không có điều khoản nào quy định cách giải quyết các tranh chấp về chủ quyền đối với đảoCác chính quyền Việt Nam từ thế kỷ 17-18 đã tổ chức khai thác quần đảo Hoàng Sa. Đến đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn Việt Nam đã chính thức xác lập chủ quyền trên quần đảo. Tới đầu thế kỷ 20, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp tiếp tục chủ quyền đối với quần đảo từ nhà Nguyễn, nhưng bắt đầu có sự tranh chấp chủ quyền với các chính quyền Trung Quốc. Trước năm 1974, Việt Nam Cộng hòa tiếp nối thực hiện chủ quyền và kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa còn Trung Quốc kiểm soát phần còn lại từ năm 1956. Từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 đến nay, Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đồng thời tuyên bố đây là lãnh thổ của họ. Chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa vẫn đang là chủ đề tranh luận giữa Trung Quốc và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt ngày 1 tháng 5 năm 2014, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan HD-981 vào khu vực biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa dẫn tới việc nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố phản đối, đồng thời tàu thuyền của hai quốc gia đã có một số va khoan HD-981MỤC LỤC Vị trí địa lý và lãnh thồ ………………………………………………………………… 2Nghề cá …………………………………………………………………………………… 3Giao thông vận tải ……………………………………………………………………… 8Du lịch ………………………………………………………………………………… 9Khoáng sản ……………………………………………………………………………… 11Các đảo và quần đảo ………………………………………………………………… 1316 Du lịch Biển - Du lịch Biển Đảo, Du lịch biển hè 2023 sẽ là lựa chọn thích hợp cho Du lịch Mùa hè, và là thời điểm lý tưởng dành cho những chuyến du ngoạn biển đảo. Du khách có thể thỏa sức khám phá những bãi biển xanh cát trắng, nắng vàng, đắm mình trong làn nước trong veo tại Hạ Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, Phú Yên, Phan Thiết, Mũi né, Phú Quốc, Côn Đảo, Đảo Bình Ba, Đảo Bình Hưng, Đảo Phú Quý,... khởi hành các tour du lich Biển hàng ngày từ Hà nội và Thành Phố Hồ Chí minh, ... Hãy cùng Du Lịch Việt khám phá những địa điểm du lịch biển đảo vừa đẹp, độc, lạ, hứa hẹn mang đến cho bạn những kỳ nghỉ hè sôi động và ý nghĩa. TAG Du lich Bien, Tour du lich Bien, Tour Du lịch Biển, Du lịch Biển, Tour Biển, Tour Đảo, Tour Biển đảo, Kinh nghiệm du lịch Biển, du lịch biển hè, tour biển hè 2023, tour du lịch biển hè 2023 Xem thêm

du lịch biển đảo vùng duyên hải nam trung bộ